Ngày hai mươi chín tháng Chín năm Khánh Hi thứ mười hai, điệp báo của Đại Lý truyền tới kinh.
Chim bồ câu bay ngàn dặm chỉ mang tới có mấy chữ: “Việc đã định”.
Nét bút của Tống Biệt không hề vội vàng hay kiêu ngạo mà thanh đạm đến mức không giống như đang tổng kết một trận giết chóc máu tanh.
Ngày hai mươi sáu tháng Chín, gần nghìn nhân khẩu từ trên xuống dưới trong phủ Đoàn Thừa bị năm trăm tinh binh của Đoàn Bỉnh tràn vào lúc đêm khuya giết cho không chừa một mống.
Đoàn Bỉnh nghe tin thì kinh hãi, dù hai mắt vẫn chưa thể nhìn được vì độc chưa tiêu hết vẫn lần mò đến phủ của anh cả để dập đầu tạ tội.
Đại tướng Mã Tự – thuộc hạ cầm đầu chính biến của Đoàn Bỉnh – khóc lớn ba tiếng, chỉ nói: “Không ngờ lại hại chúa công vào tội bất nghĩa, lấy cái chết để tạ tội” rồi rút kiếm tự vẫn dưới chân Đoàn Bỉnh.
Đoàn Bỉnh ôm xác khóc lóc thảm thiết một hồi bèn mang đầu người này đến trước linh cữu Đoàn Thừa.
Đợi lúc sáng sớm Đoàn Bỉnh vào cung nhận tội với hoàng đế Đại Lý đã có một chiếc kiệu lớn gấm xanh lá đỗ ở trước cửa hoàng cung từ trước.
Miêu Hạ Linh cầm quốc thư hòa thân của hoàng đế Khánh Hi trung nguyên, cúi đầu đi ra từ sau rèm, vừa lúc gặp ánh mắt của Đoàn Bỉnh.
Hai mắt mù vì bị vương trưởng tử Đoạn Thừa đầu độc trong lời đồn mà lúc này lại sáng, phản chiếu mặt trời mới mọc, hăm hở, sặc sỡ loá mắt.
Bởi vậy, Miêu Hạ Linh viết trong tấu chương ngày đó rằng: “Đoàn Bỉnh đã lộ tài năng, chí không nhỏ, nay trộm được ngôi vị hoàng đế Đại Lý, thần sợ sẽ được voi đòi tiên, không cam lòng ở dưới người khác, trở thành tai hoạ ngầm của trung nguyên”.
Mười ngày sau, lúc tấu chương của hắn ta đến kinh, hoàng đế lại cố ý xem nhẹ những lời này, khép sổ gấp lại, nói với Cát Tường: “Đến cung của Dương thái phi”.
Loan giá vừa mới dừng ở trước cửa cung Thọ Ninh, chợt nghe góc sau có tiếng bước chân dồn dập.
Cát Tường liếc nhìn rồi cười nói: “Công chúa điện hạ vội vã làm gì thế?”.
Trên trán công chúa Cảnh Ưu lấm tấm mồ hôi, có vẻ đã chạy tới, thấy ngự giá ở trước mặt thì dừng bước ngây ra, căng áo kép bào trên người: “Hoàng thượng vạn phúc kim an”.
“Đúng là thiếu lễ nghĩa, không có quy củ”.
Dương thái phi được tin nên đi ra đón chào từ trong cung, thấy thế bèn mắng công chúa Cảnh Ưu một câu.
“Mẹ…” Công chúa Cảnh Ưu gấp đến mức mặt đỏ lên, nhìn hoàng đế muốn nói lại thôi.
“Đừng bướng bỉnh”.
Dương thái phi kéo nàng ra sau mình, mời hoàng đế ngồi trong chính điện: “Gần đây hoàng đế bận rộn việc triều chính, sao lại rảnh rỗi tới đây? Hôm qua còn nghe nói thế cục Đại Lý rung chuyển, hoàng đế hết sức lo âu, nay đều êm thấm rồi à?”.
Trong cung, tin tức truyền đi rất nhanh, e là Dương thái phi và công chúa Cảnh Ưu đều đã biết chuyện hòa thân rồi.
Hoàng đế không khỏi nở nụ cười, nói với Dương thái phi: “Chẳng những êm thấm mà còn có thêm một việc vui.
Trẫm tới để chúc mừng thái phi đấy.
Hai năm trước vương tử Đoàn Bỉnh của Đại Lý đã đề cập tới việc hôn nhân với trẫm.
Trẫm từng nghe người ta nói, vương tử này tuấn tú lịch sự, làm việc quyết đoán, là một nhân tài vốn quý.
Bây giờ hắn đã là vương trữ của Đại Lý, trẫm muốn gả công chúa qua thì sau này sẽ là vương hậu Đại Lý, hai nước nên duyên Tần Tấn[1], với đất nước, với gia đình, với công chúa và thái phi đều là chuyện may mắn”.
Dường như Dương thái phi rất là thoả mãn với cuộc hôn nhân này, đặc biệt là khi nghe thấy hai chữ “vương hậu”, trên mặt lập tức có vẻ vui mừng, cuối cùng vẫn than thở: “Hoàng đế nghĩ không sai, chỉ là Cảnh Ưu lấy chồng xa, không có lúc về thăm viếng như công chúa Cảnh Giai, từ nay về sau, mẹ con ta không được gặp nhau nữa”.
“Cảnh Ưu, em thấy có được không?” Hoàng đế thấy Dương thái phi không có ý kiến khác thì quay sang hỏi công chúa Cảnh Ưu.
Công chúa Cảnh Ưu vẫn luôn cúi đầu, lúc này mới chậm rãi nói: “Bẩm hoàng thượng, Cảnh Ưu không muốn lấy”.
“Cái gì?” Hoàng đế và Dương thái phi đều kinh ngạc.
“Không muốn lấy ạ!” Công chúa Cảnh Ưu đứng lên nói: “Đoàn Bỉnh này giết anh đoạt quyền, không có trung hiếu cương thường, sao lại bắt em lấy người như thế?”.
Hoàng đế cười nói: “Em thì hiểu gì? Nếu mọi chuyện đều theo khuôn phép cũ, nhìn trước ngó sau thì còn coi là hành động của bậc đại trượng phu thế nào được?”.
“Nước mọi rợ bọn chúng đều như vậy cả…”
“Câm miệng!” Dương thái phi cả giận nói: “Trước mặt hoàng đế mà con thế này thì còn thể thống gì?”.
Công chúa Cảnh Ưu cười khẩy một tiếng: “Thì ra mẹ cũng không hướng về con.
Con nói không lấy chồng thì đừng ai mong ép được con”.
“Tạo phản rồi!” Dương thái phi nhìn nàng xoay người lao ra ngoài cửa thì thở dài: “Sao lại sinh ra thứ oan nghiệt như vậy?”.
Hoàng đế cười nói với Dương thái phi: “Em gái lưu luyến thái phi, không muốn lấy chồng ở xa, hai ngày nữa suy nghĩ ra thì sẽ tốt thôi ạ”.
Toàn bộ chuyện này đều do Dương thái phi làm chủ, hoàng đế đã yên tâm, lúc trở lại thì đến cung Khôn Ninh một chuyến.
Khi hoàng hậu ra đón, trên mặt thậm chí còn có chút kinh ngạc.
“Lâu không tới, chỗ nàng vẫn trắng trong mộc mạc như vậy, sao không mua sắm thêm?” Sợ rằng chỉ có cung Khôn Ninh còn giữ loại ghế cứng rắn này để dùng, hoàng đế rất không quen, mất tự nhiên xoay người.
Hoàng hậu gầy hơn rồi, ngón tay như cành trúc yên lặng đặt trên đầu gối, tiếng nói lạnh nhạt đến mức không trộn lẫn chút tình cảm nào: “Nô tì cảm thấy như vậy lại an nhàn, làm phiền hoàng thượng nhớ mong rồi”.
Hoàng đế lại đánh giá chung quanh trong chốc lát, cảm thấy hơi lúng túng và buồn chán, cười nói: “Trẫm có chuyện mời nàng đứng ra”.
“Không dám”.
Hoàng hậu cũng là người cực kỳ thông minh, chỉ nói: “Hoàng thượng muốn thần thiếp khuyên nhủ công chúa Cảnh Ưu thì nô tì sẽ làm theo”.
Hoàng đế hơi đỏ mặt, ngượng ngùng nói: “Vậy là tốt rồi.
Trẫm đi đây, nàng cũng hãy giữ gìn cơ thể.
Nhìn nàng đi, gầy đến mức nào rồi, chính nàng không đau lòng, trẫm còn đau lòng đây”.
Hoàng hậu vẫn tỉnh bơ: “Vâng.
Cung tiễn thánh giá”.
Hoàng đế đi ra từ trong điện u ám của cung Khôn Ninh, bị ánh mặt trời chiếu lên mới thấy hậm hực.
“Không hợp nhau tới vậy cơ à?” Hoàng đế hỏi Cát Tường.
“Hì hì”.
Cát Tường vô cùng khó xử, miễn cưỡng cười làm lành một tiếng, không dám tiếp lời.
Đến đêm, hoàng hậu lại tự mình tới cung Càn Thanh.
Hoàng đế đang định đến cung Tiêu Cát, chỉ đành thôi, cho phép hoàng hậu ngồi trên giường, nghe nàng nói: “Thần thiếp không hoàn thành được chuyện này”.
“Không sao, hôm nay không thuyết phục được nó thì ngày mai lại khuyên bảo tiếp.
Chẳng qua là nó còn nhỏ, mặt mỏng nhát gan…” Hoàng đế thấy hoàng hậu từ từ lắc đầu thì hỏi: “Sao thế?”.
“Theo thần thiếp thấy, công chúa đã quyết tâm không đến Đại Lý lấy chồng, chỉ sợ thần thiếp không thể khuyên được.
Thần thiếp thấy công chúa như đinh đóng cột, chỉ sợ ép quá sẽ mất mạng người.
Bởi vậy mới tới xin hoàng thượng bảo cho biết”.
Hoàng đế không cho là đúng: “Ngày mai nàng thử lại lần nữa đi”.
Đột nhiên hoàng hậu nở nụ cười: “Hoàng thượng đúng là không hiểu con gái”.
“Cái gì?” Hoàng đế sửng sốt.
Hoàng hậu đã đứng lên khom người: “Thần thiếp xin cáo lui”.
“Có ý gì vậy?” Hoàng đế nhìn bóng lưng của nàng, hỏi Cát Tường.
“Nô tỳ không biết”.
“Không biết?” Cuối cùng hoàng đế cảm thấy hơi khó chịu: “Trong cung này từ trên xuống dưới không có gì là khanh không biết cả, nói!”.
Cát Tường cười tâu: “Quả thực không biết ạ”.
Thấy hoàng đế giận tái mặt, vội bảo: “Nô tỳ quả thực không biết tình hình bên trong.
Hoàng thượng quên trong cung này, người được xưng là không gì không biết chỉ có…”.
“Tịch Tà, gọi Tịch Tà!” Hoàng đế đứng lên.
Tiểu Hợp Tử truyền lời tới viện Cư Dưỡng.
Tịch Tà nghe xong thì ho một trận dữ dội không ngừng được, cuộn tròn ở trên giường gần như tắt thở mất một lúc.
Minh Châu vẫy tay bảo Tiểu Hợp Tử lui xuống, bưng thuốc tới trước mắt Tịch Tà lại bị hắn lấy tay đẩy ra.
“Lôi Kỳ Phong!” Tịch Tà che ngực thở hổn hển, hung tợn nói: “Lần tới gặp được y nhất định phải lấy mạng y”.
Minh Châu lại phì cười: “Lục gia muốn lấy mạng người khác, chớ giận chó đánh mèo sang Lôi Kỳ Phong.
Uống thuốc trước rồi nói”.
Tịch Tà cau mày nhận lấy thuốc, uống một hơi cạn rồi chỉ vào hũ đường phèn đặt trên bàn, nói không ra lời.
“Đắng à?” Minh Châu cười bảo: “Gần đây thuốc của thầy Trần càng ngày càng ghê gớm”.
Tịch Tà xoay mặt lại hỏi: “Hiện giờ hoàng thượng đang ở nơi nào?”.
Tiểu Hợp Tử bước lên phía trước nói: “Trước khi cháu đi ra, vạn tuế gia đang muốn đến cung Tiêu Cát”.
“Cậu bẩm lại với hoàng thượng, bệnh tình của Tịch Tà thực sự rất nặng, không dậy nổi”.
“Sư thúc, cháu sẽ khó xử…”
“Đi đi, đi đi”.
Minh Châu đẩy Tiểu Hợp Tử ra khỏi cửa: “Nói một tiếng với thầy cậu là không sao đâu”.
Tiểu Hợp Tử xoay người lại hỏi: “Chị Minh Châu, anh em tôi vẫn ổn chứ? Sao không nhìn thấy vậy?”
“Vẫn khỏe”.
Minh Châu dịu dàng nói: “Không phải là bốc thuốc đấy sao? Lát về ngay thôi, tôi sẽ nói cho cậu ấy biết là cậu đã tới”.
“Này”.
Minh Châu nhìn Tiểu Hợp Tử ra khỏi cửa viện, nghe thấy tiếng soàn soạt trong bóng tối sau hành lang: “Đi rồi”.
Tiểu Thuận Tử nhô đầu ra: “Đi thật rồi ạ?”
“Cậu cũng biết làm việc cẩn thận đấy, xem như đã tiến bộ rồi.
Anh cậu đi thật rồi.
Thầy cậu đang chờ đấy, mau vào đi thôi”.
Tiểu Thuận Tử cười nói: “Có một số việc, anh ấy không biết thì tốt hơn.
Gặp rồi có thể tôi sẽ nói lung tung”.
Tịch Tà đã khoác quần áo ngồi dậy, Tiểu Thuận Tử tiến đến bên cạnh hắn nói: “Con đã hỏi rồi, chính là đêm nay, vẫn là canh ba”.
“Khương Thống lĩnh sắp xếp xong chưa?”
“Nói là tuyệt không sai sót”.
Tịch Tà lại từ từ nằm xuống, bảo: “Ta nghỉ thêm một lát, con chuẩn bị đi”.
Loan giá của hoàng đế đã đến cung Tiêu Cát.
Tiểu Hợp Tử đi vào trong lặng lẽ gọi một tiếng, thấy Cát Tường chạy ra ngoài thì lặp lại lời của Tịch Tà một lần.
Cát Tường cười nói: “Không tới cũng không sao.
Hoàng thượng đang bận đấy, lúc này đã quên mất rồi”.
Cách bức rèm châu, quả nhiên thấy hoàng đế tươi cười nhìn Mộ Từ Tư bận trước bận sau rót rượu gắp thức ăn.
Mới uống một chén rượu mà đã như say túy lúy.
“Hoàng thượng nếm thử món này đi”.
Mộ Từ Tư đẩy đĩa đến trước mặt hoàng đế.
Mặt trên có dưa và trái cây bốn mùa như cà, bí đỏ các loại góp lại, sấy đến vàng óng.
Hoàng đế cười nói: “Thứ gì vậy? Mới mẻ đấy.
Đáng tiếc không phải lúc ăn lót dạ”.
Mộ Từ Tư chống cằm, dường như đang cười trộm rồi bĩu môi nói: “Có sao đâu, ăn rồi sẽ biết thôi”.
Hoàng đế nếm một miếng, cười hỏi: “Bên trong gói gì mà ngọt thơm thế?”.
“Đương nhiên là ngọt rồi!” Mộ Từ Tư đáp: “Là khoai lang ạ”.
“Khoai lang?”
“Tiểu thái giám trong cung thần thiếp nói, trước kia nhà anh ta không được ăn cơm, chỉ đào khoai lang trong đất lên ăn.
Nhưng không ngờ trong cung, ngay cả khoai cũng có thể làm độc đáo như thế”.
Cát Tường không nhịn được rùng mình, mà hoàng đế lại không hề tức giận chút nào, cười nói: “Nàng đang khuyên trẫm thương xót cho trăm họ à?”.
“Không ạ”.
Mộ Từ Tư lắc đầu: “Nô tì chỉ nghĩ bình thường hoàng thượng đều ăn sơn hào hải vị, đổi khẩu vị cũng tốt”.
Hoàng đế hỏi: “Rượu này cũng như ngày thường thì đổi khẩu vị thế nào?”.
“Hay là thần thiếp chơi đố số[2] với hoàng thượng!” Mộ Từ Tư cười vén tay áo lên, nắm tay lại đưa tới trước mặt hoàng đế, dưới tay áo đỏ lộ ra nửa cánh tay ngọc trắng như tuyết, bị hoàng đế đưa tay tóm được.
“Hoàng thượng!” Mộ Từ Tư xấu hổ đến đỏ cả mặt.
Hoàng đế nhẹ nhàng uốn ngón tay nàng ra, hôn lên lòng bàn tay mềm mại ấm áp của nàng.
Mộ Từ Tư nhìn gò má hoàng đế đưa tình, nói: “Thần thiếp… rất thích ở cùng hoàng thượng”.
Hoàng đế nghe vậy, sự vui sướng vô hạn lại làm trái tim hơi đau đớn: “Trẫm cũng thích tới chỗ nàng”.
Cát Tường thức thời, âm thầm phất tay với cung nữ.
Tiếng vạt áo lướt đất của nọi người như lá rụng trong đình viện mỗi khi có cơn gió nhẹ thổi qua, cửa đóng “két” một tiếng trong trẻo, Mộ Từ Tư đỏ mặt, cả hai nhìn nhau cười.
Hoàng đế kéo nàng ngồi lên đầu gối, vùi trong cổ nàng híp mùi thơm ngọt ngào của cơ thể nàng.
“Phù”.
Mộ Từ Tư cong đôi môi đỏ mọng lên, thổi tắt nến đỏ trên bàn.
Nửa đêm vốn nên vắng người, ngoài cửa lại truyền đến tiếng bước chân sàn sạt.
Hoàng đế rất dễ tỉnh giấc, chợt mở mắt ra.
“Vạn tuế gia”.
Cát Tường thấp giọng, khẽ gõ cửa.
Hoàng đế thở phào nhẹ nhõm, thấy Mộ Từ Tư bên cạnh vẫn đang mỉm cười trong mộng, chỉ nhẹ nhàng dịch cánh tay nàng ra, khoác quần áo đứng dậy.
“Chuyện gì?” Mở rộng cửa nhìn thấy Cát Tường quỳ trên mặt đất, hoàng đế vẫn tức giận: “Nửa đêm canh ba”.
“Nô tỳ tội đáng muôn chết”.
Cát Tường dập đầu nói: “Tịch Tà xin gặp ạ”.
Hoàng đế giận quá hóa cười: “Trẫm quên mất, cho đòi hắn mấy canh giờ rồi mà giờ lại đến”.
Cát Tường nâng áo choàng tới, nói: “Hoàng thượng, bên ngoài lạnh lắm”.
“Làm gì thế không biết?” Hoàng đế xua tay bước ra cửa, Tịch Tà đã quỳ chờ ở hành lang, tuy đã quấn kỹ không lọt gió mã vẫn đang khẽ rùng mình.
Hoàng đế vốn muốn trách móc một câu, thấy thế thì không nỡ mở miệng.
“Nô tỳ quấy rầy vạn tuế gia yên gối, tội đáng chết vạn lần, mong hoàng thượng thứ tội”.
Tịch Tà nói: “Đêm khuya gió lạnh, xin vạn tuế gia mặc thêm áo”.
Cát Tường hầu hạ hoàng đế mặc vào áo bào kép vào, hoàng đế ngờ vực hỏi: “Đi đâu đấy?”.
“Sự việc quan trọng, nô tỳ cả gan xin vạn tuế gia đi theo”.
Tịch Tà đứng lên nghiêng người dẫn đường.
Đêm lạnh như nước, sương trắng đầy đất, dọc đường Đông đại thiên sáng đèn cũng có vẻ khá ảm đạm, chỉ có tiếng bước chân của hoàng đế vọng lại, Tịch Tà theo sát phía sau hắn ta mà như không tồn tại.
Hoàng đế hít một hơi thật sâu: “Thì ra trong cung vẫn có thể yên tĩnh như vậy”.
Tịch Tà mỉm cười đến mức thậm chí hơi kỳ ảo, hoàng đế bỗng cho rằng đây chẳng qua chỉ là hồn phách của hắn.
“Nếu vạn tuế gia muốn yên tĩnh thì ai dám thở mạnh chứ?” Lúc hắn nói chuyện, bên môi im ắng, trong không khí lạnh lẽo như vậy mà chẳng phun ra chút hơi trắng nào.
Hoàng đế kéo hắn lên trước một bước, chạm vào cánh tay hắn mới thấy hơi an lòng.
“Nói như vậy mệt lắm, khanh đi bên cạnh trẫm đi”.
“Vâng”.
Tịch Tà đồng ý rất nhanh nhưng vẫn đi sau hoàng đế nửa bước, không dám sánh vai.
Trước mắt chính là điện Phụng Tiên, đèn trong phòng trực vẫn sáng, hoàng đế nghỉ chân và hành lễ với chính điện, Tịch Tà cũng hết sức cung kính, lặng lẽ cầu khấn.
“Nghĩ gì thế?”
“Tổ tiên phù hộ triều ta hưng thịnh ạ”.
Tịch Tà cười nói.
Hoàng đế cũng cười.
Có vẻ người trong phòng trực nghe được tiếng động, ho hai tiếng rồi đứng dậy.
Tịch Tà dựng thẳng ngón tay ở bên môi, nắm ống tay hoàng đế lặng lẽ xuyên qua cửa của tường xây làm bình phong ở cổng khuất trong bóng tối.
Bỏ lại đèn dầu trong thâm cung lại đằng sau, ánh sáng nhẹ nhàng chợt chiếu vào mặt.
Trên biển tùng nơi này, sao dày như dệt cửi, phía chân trời như nước sông lững lờ, phản chiếu chúng sinh cõi phàm.
Mà bấy giờ Tịch Tà lại dùng sức kéo tay áo hoàng đế vào trong bóng cây.
“Vạn tuế gia, xin di giá và chờ một lát ở đây”.
“Chỗ này không phải vườn Minh Tri à?” Hoàng đế đưa tay đẩy cành cây trước mắt ra, buồn cười: “Tại sao trẫm phải thậm thà thậm thụt?”
Tịch Tà thở dài một tiếng.
“Canh ba”.
Hắn đột ngột nói.
“Hả?”
Chuông tuần trên tường thành phía xa nhẹ nhàng đi tới, tiếng canh trong thâm cung cũng phụ xướng theo.
Hoàng đế thấy Tịch Tà cố chấp lắc đầu ý bảo chớ lên tiếng, mặc dù trong lòng rất nhiều nghi hoặc hiếu kỳ cũng chỉ đành đứng im.
Chẳng bao lâu sau, quần áo sàn sạt lướt đất vườn Minh Tri, trong lúc ngẩn ra, hoàng đế đã thấy một cô cung nữ hai mươi lăm hai mươi sáu đi vào, nhìn quanh bên trong vườn rồi lại liên tục vỗ tay, cuối cùng thở dài nói: “Ngay thời điểm quan trọng mà hắn lại muộn”.
“Chờ cũng không sao”.
Lại có một thiếu nữ mặc đồ cung nữ đi đến, dựa ở trên cành cây, nhìn lên vì sao xa xa.
Hoàng đế nghe giọng nàng rất quen nhưng không nhớ có quen một cung nữ như vậy, xoay mặt trông Tịch Tà mà hỏi dò.
Tịch Tà lại chỉ khẽ cười nhạt, cắn chặt răng không nói nửa lời.
“Lẽ nào tối nay thị vệ trong cung đều có việc gì gấp?” Cô gái kia im lặng một lát, cuối cùng thở dài.
Hoàng đế nghe vậy thì nổi trận lôi đình.
Lấy chức thị vệ mà dám tự tiện vào hoàng cung vụng trộm gặp cung nữ, khi quân phạm thượng, không biết liêm sỉ, thật đáng chém.
Hoàng đế tức đến run lên, chỉ còn chờ thị vệ kia đến thì sẽ bảo Tịch Tà bắt lấy.
Ai ngờ cô gái kia dần mất kiên nhẫn, chậm rãi đi lại trong đình, lúc quay người lại, khuôn mặt bị anh sao phản chiếu rõ ràng, chính là công chúa Cảnh Ưu.
Hoàng đế nào đoán được là công chúa tư thông với kẻ khác, giận đến nỗi máu dồn lên trán, người thoáng giãy giụa lại bị Tịch Tà nắm chặt tay, lắc đầu với hoàng đế.
Ngón tay hắn lạnh đến tận xương, hoàng đế chùn lại, rút tay về phía sau, Tịch Tà lại vẫn không thôi, kéo hắn lặng lẽ rút khỏi vườn Minh Tri.
“Láo xược!” Hoàng đế hất tay hắn ra, cả giận nói: “Sao lại ngăn trẫm?”.
“Vạn tuế gia bớt giận”.
Tịch Tà khuyên nhủ: “Chung quy công chúa phải lấy chồng xa, trời tối người yên, giờ mà hoàng thượng làm loạn ra ngoài thì không còn cách nào ăn nói với bên Đại Lý”.
Hoàng đế gật đầu cười nhạt: “Được được được! Cứ giữ thể diện cho nó.
Khanh nói cho trẫm biết, thị vệ nó lén gặp là ai? Ngày mai trẫm sẽ lấy đầu hắn”.
“Nô tỳ không biết”.
“Không biết?” Hoàng đế tức đến lạnh cả tay chân, chỉ vào Tịch Tà nói: “Sư huynh đệ các khanh hỏi gì cũng không biết à? Khanh không nói, được, giờ trẫm sẽ về vườn Minh Tri, chờ tên súc sinh kia lộ diện”.
Tịch Tà đuổi theo cười nói: “Hoàng thượng, hoàng thượng dừng chân, đêm nay người đó sẽ không tới đâu.
Hiện nay tất cả thị vệ đang trực đều ở dưới mí mắt của thống lĩnh thị vệ, không ai có thể tự ý đi lại, chắc chắn hắn sẽ không thoát thân mà đến chỗ hẹn được”.
“Khanh đang bảo trẫm nhân nhượng kẻ gian à?”
“Tên thị vệ to gan lớn mật này quả thật đáng băm thành trăm mảnh, hắn mà chết thì sẽ đầu xuôi đuôi lọt.
Nhưng xin hoàng thượng nghĩ lại, với tính cách của công chúa Cảnh Ưu, nếu ép buộc thì liệu công chúa còn có thể yên bình, vui vẻ lấy chồng đến Đại Lý ư?”
Hoàng đế bị hắn nói cho sững sờ chốc lát, mới nói: “Có bao nhiêu người biết chuyện này?”
Tịch Tà nói: “Ngoại trừ người trong cung công chúa thì chỉ có nô tỳ thôi”.
“Trẫm biết rồi”.
Hoàng đế nhếch môi.
“Vâng”.
Tịch Tà khom người như thể đã hiểu ra điều gì.
Cứ như vậy im lặng không nói trở lại cung Tiêu Cát, Cát Tường ra đón, đỡ hoàng đế bước lên bậc thang.
“Người khanh đã khá hơn chút nào chưa?” Hoàng đế vào nhà trước hỏi.
“Vẫn vậy ạ”.
Tịch Tà nói.
“Trẫm thấy không ho nữa, ngày mai đến cung Càn Thanh trực”.
Tịch Tà cười, chỉ thở dài.
Khi trở về Tiểu Thuận Tử đã ngủ, chỉ có Minh Châu vẫn chờ.
Nàng nghe Tịch Tà nói xong thì sẵng giọng: “Khó khăn lắm lục gia mới có thời gian dưỡng bệnh lại phải khổ cực vì tên Úc Tri Thu này gây họa.
Gia thật là nhẫn nại mới để cho gã càn quấy”.
Tịch Tà ho một hồi, cười nhạt nói: “Sao tôi lại không muốn giết gã? Là vì Khương Phóng khuyên tôi, không nói đến chuyện Úc Tri Thu chết thì sự vất vả tổ chức ở cửa Tử Nam mấy tháng qua sẽ thành công dã tràng, chỉ nói tới việc gã là thám hoa mà tôi chọn ra, vô duyên vô cớ bỏ mạng thì tôi thoát khỏi liên can thế nào được? Ôi!” Tịch Tà than thở: “Lúc ở Thượng Giang đã thấy họ không an phận, chỉ nói sau khi về kinh có cung tường ngăn cách, sẽ chẳng có gì.
Ai ngờ gã háo sắc đến liều, tự tiện vào màn cấm, còn không khống chế được như thế?”.
Minh Châu sợ hắn tức giận, vội vàng khuyên hắn đi ngủ.
Tịch Tà cố khép mắt một lát, sáng sớm đã tìm đến cung Càn Thanh mà đợi.
Chẳng bao lâu, hoàng đế đã về từ cung Tiêu Cát, vào cửa nhân tiện nói: “Tịch Tà ở lại, những người khác tránh đi”.
Hắn ta ngồi bên bàn cờ, đánh cờ rồi cân nhắc trong yên tĩnh.
“Công chúa Cảnh Ưu đến rồi ạ”.
Như Ý ở ngoài đẩy cửa ra, công chúa Cảnh Ưu đi vào với sắc mặt tái nhợt, cung nữ theo phía sau bị Như Ý ngăn lại hết từ xa.
“Hoàng thượng vạn phúc kim an”.
“Sắc mặt em không tốt, vành mắt cũng đỏ, ngủ không ngon à?” Hoàng đế mềm giọng ân cần hỏi, chỉ vào ghế bảo nàng ngồi.
Công chúa Cảnh Ưu cười gượng nói: “Vẫn ổn ạ”.
“Em đã nghĩ xong việc hôn nhân hôm qua nói chưa?”
“Cảnh Ưu không muốn lấy chồng đến Đại Lý”.
“Đừng nói lời trẻ con nữa, con gái đều phải lập gia đình.
Em đến Đại Lý rồi thì sẽ là vương hậu, dù là Cảnh Giai cũng kém em đấy”.
“Vương hậu thì đã sao chứ?” Công chúa Cảnh Ưu nói: “Các đời hoàng hậu triều ta tổng cộng cũng có mười lăm mười sáu vị, nào ai được trước sau vẹn toàn? Hoàng huynh dựa vào lương tâm mà nói xem, gả em đến Đại Lý liệu có một phần là vì nghĩ cho em không?”.
Hoàng đế cười nói: “Không sai, em đến Đại Lý là để dẹp yên tây nam.
Bây giờ xã tắc rung chuyển, bốn bề là địch, em không thể vì trẫm, vì giang sơn tổ tông truyền tới hôm nay mà ngẫm lại hay sao?”.
“Đó là chuyện của hoàng huynh”.
Công chúa Cảnh Ưu nổi giận nói.
“Sai rồi!” Hoàng đế vẫn mỉm cười: “Mấy trăm triệu nhân dân trung nguyên nuôi em cơm ngon áo đẹp hơn chục năm, nay họ trong cơn nước sôi lửa bỏng, đừng nói bắt em đến Đại Lý làm hoàng hậu để đảm bảo cho họ mấy năm thái bình mà lấy tính mạng của em ngay lúc này cũng chẳng có gì quá đáng”.
Sau khi cả kinh, công chúa Cảnh Ưu giận dữ nói: “Dựa vào đâu chứ?”
“Dựa vào đâu?” Hoàng đế bảo: “Con cái hoàng thất chúng ta sống vì giang sơn, chết vì xã tắc.
Công chúa các đời lấy chồng ở man di xa xôi nhiều vô số kể, hoàng tử chết trận sa trường cũng không biết bao nhiêu, đang được thờ cúng trong điện Phụng Tiên đấy.
Không nói đâu xa, chẳng phải thái tử Tĩnh Đức cũng quên mình vì nước đó sao?”.
Công chúa Cảnh Ưu cười khẩy nói: “Hoàng thượng không nhắc tới thái tử Tĩnh Đức thì thôi, trong cung này từ trên xuống dưới có ai mà không biết thái tử của tiên đế chết như thế nào?”.
Một câu của nàng đã đâm trúng chỗ đau của hoàng đế, hắn ta nắm chặt quân cờ trong tay, nhịn một lát mới bảo: “Thái phi đã đồng ý với việc hôn nhân này rồi, em tiếp tục khăng khăng thì mặt mũi thái phi cũng không còn đâu”.
“Mặc dù thái phi là mẹ đẻ em nhưng chưa bao giờ cho em một ngụm sữa, em cũng chưa bao giờ ở bên thái phi một ngày.
Hoàng thượng lấy thái phi ra ép em, không có tác dụng đâu”.
Hoàng đế cười to nói: “Chưa từng thấy kẻ bất trung bất hiếu như vậy.
Rốt cuộc là thứ gì đã mê hoặc tâm trí em?”.
Công chúa Cảnh Ưu sửng sốt, hỏi: “Gì cơ?”
“Trẫm đang hỏi em là cái gì mê hoặc tâm trí em!” Hoàng đế ném bốp quân cờ xuống bàn: “Lúc nào trẫm cũng giữ thể diện cho em, lúc nào cũng nhắm một mắt mở một mắt với em, em lại điên cuồng ngang ngược à? Chẳng lẽ muốn trẫm lật tung cả cung Thanh Hòa lên, tìm ra tên khốn nạt gan to tày trời à?”.
Công chúa Cảnh Ưu đỏ mặt, đột ngột đứng dậy định đi ra phía ngoài.
Tịch Tà tiến lên một bước, khẽ ngăn cản: “Công chúa