Mùng năm tháng hai năm Khánh Hi thứ mười ba, trên phố Tịnh Thủy Bát, đường Hoàng Thổ Điếm, đại lộ Chu Tước, hơn mười dặm màn vàng và hơn vạn cấm quân phân cách Ly đô ra thành từng vùng nhỏ.
Giờ Thìn, đại giá đi ra từ cửa Chu Tước, hoàng đế ngồi trên ngựa trắng, mặc thường phục có tay áo bó, mũ da đỏ như lửa buộc tóc lại, thần thái phấn chấn, rất có khí phách oai hùng.
Đại tướng cưỡi ngựa theo hầu bên cạnh hoàng đế có khuôn mặt cháy vàng, khó giấu vẻ thanh cao, ngưng tụ tài hoa, chính là đương kim quốc trượng, đại tướng quân Chấn Bắc, Vệ Ninh hầu – Vương Cử.
Tất nhiên không thể thiếu chúng tướng bộ binh, giám quân kinh doanh và hai nghìn thị vệ cấm quân khác vây quanh.
Dưới cái lạnh căm căm của đầu mùa xuân, họ chạy chầm chậm đến kinh doanh ở cửa khẩu Tiểu Hợp Kinh duyệt binh xem lễ.
Sau khi thiết lập lại kinh doanh, đây là lần đầu tiên hoàng đế giá lâm.
Dù ngày mai tắt thở, thì hôm nay Hạ Dã Niên cũng không phải lộ diện ở cửa khẩu Tiểu Hợp.
Hôm mùng bốn gã đã đội gió lạnh tham gia răn bảo việc thao trường với Khương Phóng, giám sát giám Ty thiết về việc bố trí màn ngự trên tướng đài.
Tới hôm mùng năm, lúc mặt trời mọc thì dựng cờ lớn kim long vàng chói ở thao trường, để tế thần cờ.
Hạ Dã Niên che kín áo choàng, chỉ lo nhìn chăm chú góc cờ phấp phới trong nắng mai, khẽ run rẩy trong gió lạnh như băng.
“Tổng đốc đại nhân”.
Mặc dù Hạ Thiên Khánh là anh em ruột của gã nhưng trong quân đội vẫn lấy chức quan để xưng hô, ôm quyền nói: “Trời lạnh lắm, chỉ e hai ba canh giờ sau thánh thượng mới giá lâm, sao không trở về trong màn nghỉ ngơi?”.
Hạ Dã Niên vẫn ngơ ngác, một lát mới nói: “Cũng được”.
Quay người lại, gã thấy Khương Phóng nhìn mình từ xa, càng là miễn cưỡng thẳng lưng, vịn chặt bội đao.
Từng tốp từng tốp ngựa giỏi tới báo cáo, đến giữa giờ Tị hoàng đế đã cách đó năm dặm.
Hạ Dã Niên dẫn Khương Phóng và chúng tướng kinh doanh quỳ nghênh đón ở bên ngoài viên môn thao trường.
Thấy cờ lớn trong đội nghi trượng của hoàng đế che khuất bầu trời, đến trước mắt, họ hô to vạn tuế rồi phục tại chỗ lạy bốn lạy.
Hoàng đế ở trên ngựa gật đầu: “Bình thân, hai vị ái khanh vất vả rồi”.
Đoạn quay đầu nhìn Vương Cử, lại nói: “Đại tướng quân Chấn Bắc cùng đi theo trẫm.
Đại tướng quân lĩnh binh mấy chục năm, chúng tướng kinh doanh phải thao diễn cho tốt, được đại tướng quân chỉ điểm một hai là phúc của kinh doanh, cũng là phúc của trẫm”.
“Vâng”.
Hạ Dã Niên và Khương Phóng hành lễ với Vương Cử.
Vương Cử chỉ cúi người trên ngựa chứ không đáp lời.
Hạ Dã Niên và Khương Phóng dẫn đường phía trước.
Giá vào viên môn, liền có quân bắn pháo hiệu bên trong, ba tiếng như sấm vang lên trên đất bằng, xa xa nghe thấy tiếng chiêng trống chấn động bên trong thao trường.
Tức thì ai nấy đều im bặt, trong doanh chỉ có móng ngựa của nhóm hoàng đế là đập không ngừng như mưa xối xả.
Hoàng đế ghìm chặt dây cương dưới tướng đài, đạp lên lưng nội giám để xuống ngựa, dắt tay Vương Cử cùng lên đài.
Lại là ba tiếng pháo hiệu, hoàng đế ngồi lên ghế.
Dưới đài là hai vạn tinh binh đông nghịt, cầm giáo dài có tua đỏ, quỳ một chân trên đất hét lớn: “Ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!”.
Trong chớp mắt ấy, ánh mặt trời bỗng như tối sầm lại, Hạ Dã Niên yếu ớt hư nhược, không khỏi tâm thần chấn động, người ngợm run rẩy.
Nghe thấy hoàng đế bình tĩnh nói tiếng “miễn” xong, gã vội vàng ổn định tiếng nói, khom người trước vua mời duyệt trận.
Hoàng đế gật đầu, Hạ Dã Niên truyền lệnh xuống, trên đài thổi ống sáo sừng, phất cờ vàng chỉ huy, tiếng trống cùng vang lên, trong thao trường ầm ầm tiếng giáp trụ lưỡi mác ma sát, hai vạn tướng sĩ mặc trọng giáp như thủy triều lên xuống trên mặt biển chìm trong bóng đêm đen kịt, sừng sững ưỡn thẳng người.
Tiếng trống lại vang lên, cờ đen phất nhanh, dưới đài tiếng giết ầm trời, mũi giáo lẫm liệt chói mắt dưới ánh dương, tựa như giao long lân giáp cuồn cuộn bốc lên, trận Phương đã biến thành trận Khúc trong nháy mắt.
Quân uy hùng tráng khiến hoàng đế cả mừng, nhiệt huyết sục sôi trong tim, siết tay xoay mặt định nói với Vương Cử, đã thấy nụ cười ngạo mạn dưới chòm râu hoa râm của ông ta thì kiềm nén không nói nữa, nháy mắt với Tịch Tà.
Tịch Tà tiến lên ghé đến bên miệng hoàng đế, nghe hắn ta dặn dò vài câu rồi mỉm cười, gật đầu thưa: “Hoàng thượng thánh minh, nô tỳ sẽ đi làm ngay”.
Hắn lặng lẽ đi tới bên Hạ Dã Niên và Khương Phóng, truyền khẩu dụ của hoàng đế.
Chẳng bao lâu trong thao trường đã liên tục thay đổi các trận Nhuệ, Trực, Phương, Viên.
Khương Phóng thét ra lệnh đánh chuông ngăn trống, lại thổi ống sáo sừng, phất cờ lệnh màu vàn.
Tiếng chiêng vừa vang lên, mấy vạn người bỗng lặng ngắt như tờ.
Hoàng đế đứng dậy cao giọng khen: “Hay!”
Các quan bộ binh như Ông Trực cũng đều khen hay.
Hoàng đế quay đầu hỏi: “Đại tướng quân thấy thế nào?”.
Vương Cử ngạo nghễ nói: “Thân binh của hoàng thượng quả nhiên đi đứng điều độ, tĩnh như hổ ngồi, động như rồng chạy.
Quân đội như hổ như sói này mà đóng giữ kinh sư thì dư sức”.
Hoàng đế hiểu ý ông ta, nói theo: “Kỷ luật của quân Chấn Bắc nghiêm minh, xông pha đại mạc, chiếm cứ nghìn dặm đất địch.
Những trận pháp lúc này của kinh doanh bày trước mặt đại tướng thực thụ chẳng qua chỉ là múa rìu qua mắt thợ.
Nhưng…” Hắn ta quay đầu nói với Hạ Dã Niên: “Kinh doanh mới thiết lập lại được một hai tháng đã có thanh thế quân uy như vậy, suy cho cùng là nhờ Hạ khanh thao diễn điều độ, chỉ huy thỏa đáng”.
Chúng thần lập tức phụ hoạ theo đuôi, khiến hoàng đế hết sức vui mừng.
Hạ Dã Niên tái xanh mặt mày, trong gió lạnh mà cằm vẫn lấm tầm mồ hôi hột, cười gượng nói: “Hoàng thượng quá khen.
Thần vẫn luôn ôm bệnh trong nhà, mọi việc ở kinh doanh đều do hiệp đốc Khương Phóng và giám quân Tịch Tà nắm giữ.
Thần không công mà hưởng lộc, đúng là ăn ngủ khó yên”.
Hoàng đế nói: “Không.
Hạ khanh cúc cung tận tụy, sao trẫm không biết”.
Hắn ta gật đầu ra hiệu cho Cát Tường, Cát Tường bèn bưng một chỉ dụ ra.
Ngay hôm ấy, Tổng, Hiệp nhung chính của kinh doanh là Hạ Dã Niên và Khương Phóng thăng chính nhất phẩm, mỗi người được thưởng một đôi ngọc như ý, trăm đồng tiền vàng, ban thưởng một thanh bảo kiếm.
Các tướng khác trong kinh doanh đều được ban thường.
Hạ Dã Niên dập đầu tạ ơn, phục xuống mãi không có ngẩng đầu lên.
Hoàng đế hỏi: “Hạ khanh?”.
“Dạ.
Thần tạ ơn ân điển của hoàng thượng”.
Hạ Dã Niên đứng dậy, lui sang một bên rũ tay không nói.
Lát sau Cát Tường đi ra, truyền ban thưởng rượu và thức ăn cho tướng sĩ.
Hoàng đế lên ngựa hồi loan trong tiếng pháo hiệu.
“Khanh thấy Vương Cử có đáng tin không?” Hoàng đế ngồi trên giường ở tẩm điện, lo lắng hỏi.
Tịch Tà thưa: “Vạn tuế gia cảm thấy có chỗ nào không ổn ạ?”.
Hoàng đế cau mày nói: “Vương Cử theo Nhan vương, Hồng vương chinh chiến Hung Nô nhiều năm, quả thật năm đó cũng là đại tướng một mình gánh vác một phương quân vụ.
Từ năm Thượng Nguyên thứ chín trở đi, Hung Nô vẫn luôn không ngừng thôn tính nội bộ, xuôi nam xâm phạm, lúc ghê gớm nhất cũng chỉ có vạn người.
Thêm vào đó, quân vụ đóng giữ phía bắc đều giao vào tay Lương vương, quân Chấn Bắc vẫn phòng giữ ở Lạc châu và Bạch Dương, tính ra cũng đã nhiều năm chưa đánh trận nào ác liệt rồi”.
“Vạn tuế gia nói có lý”.
Tịch Tà tâu: “Nhưng Vương Cử lĩnh binh cực kỳ nghiêm khắc, mười hai vạn kỵ binh quân Chấn Bắc nghiêm túc chấp hành quân kỷ, sĩ khí tăng vọt, công lao của ông ta không nhỏ đâu ạ”.
“Chính vì vậy, ông ta mới quá đỗi kiêu căng”.
Hoàng đế thở dài nói: “Nếu hai ngày nếu trẫm phong ông ta làm tướng, e là với tính tình đó sẽ không ở chung với Lương vương được.
Lỡ lòng quân chia năm xẻ bảy, há chẳng làm người ta lo lắng?”.
“Ý của vạn tuế gia là…”
“Trẫm không có ý gì khác, dùng người thì không nghi ngờ người…” Hoàng đế bảo: “Vả, hiện nay trong triều còn ai có thể ganh đua với Lương vương, cầm giữ tám vạn tinh kỵ ở Lương châu chứ?”.
“Hoàng thượng nói phải, hiện nay người có thể đảm đương trách nhiệm nặng nề này chỉ có một mình Vương Cử”.
Nói thì nói vậy, hoàng đế vẫn rất sầu lo, suy tư một lát, đành chuyển chủ đề: “Trên thao trường, trẫm bảo khanh truyền chỉ hủy bỏ diễn trận kỵ binh, Khương Phóng có nói gì không?”.
“Ngài ấy vốn không biết là vì Vương Cử, sau đó mới thoáng hiểu ra”.
Hoàng đế nói: “Vương Cử dẫn dắt mười hai vạn kỵ binh, sẽ không coi diễn trận kỵ binh của kinh doanh ra gì.
Với sự cao ngạo của ông ta, chẳng biết sẽ nói ra điều gì khó nghe, không đâu khiến ông ta mài mòn nhuệ khí của tướng sĩ trong kinh doanh.
Khanh đi nói rõ dụng ý của trẫm với Khương Phóng đi”.
“Vâng”.
Tịch Tà vâng mệnh, hôm sau lại đến cửa khẩu Tiểu Hợp tuần sát kinh doanh, gặp Khương Phóng thì nói rõ lời của hoàng đế.
“Tôi hiểu mà”.
Khương Phóng nói: “Tay Vương Cử này thanh liêm thì đúng là cực thanh liêm, có điều quá mức kiêu căng.
Nay binh lực và chiến pháp của Hung Nô đã cách biệt trời vực với nhiều năm về trước, nếu ông ta vẫn lật mấy chiêu trò cũ thì e sẽ chịu thiệt”.
“Hoàng đế cũng đang lo lắng việc này đấy”.
“Vốn có một cách”.
Khương Phóng mỉm cười bảo: “Chỉ cần phái một người bên cạnh hoàng đế đi giám quân, phối hợp với Vương Cử và Tất Long thì chẳng phải đã xong rồi ư?”.
Tịch Tà lắc đầu nói: “Hoàng đế luôn luôn hết sức cảnh giác với nội thần.
Ta có thể giám quân ở kinh doanh đã không dễ dàng gì.
Nội thần nắm binh quyền ở bên ngoài, bất kể chuyện này do kẻ nào đề xuất ra cũng đều là tại họa về sau đối với tương lai của hắn.
Chúng ta nhất định không thể nóng lòng trong chốc lát được”.
Lúc bấy có người vào bẩm báo, xe ngựa của Hạ Dã Niên đã chuẩn bị xong, sắp về kinh rồi.
“Sao đã chuẩn bị xe rồi?” Tịch Tà hỏi.
“Hai ngày nay, ngài ấy hứng gió lạnh nên bị bệnh, không cưỡi được ngựa”.
Khương Phóng và Tịch Tà đứng dậy đi ra ngoài.
Hạ Dã Niên đã được Hạ Thiên Khánh đỡ đi ra từ hậu đường, sắc mặt vàng khè, môi cũng trắng bệch.
Hai người tiến lên cáo biệt, Hạ Dã Niên lặng im trong chốc lát mới mỉm cười nói: “Nơi đây giao cho hai người”.
“Vâng”.
Khương Phóng cảm thấy xót xa, khom người thi lễ: “Tổng đốc đại nhân bảo trọng”.
Hạ Dã Niên gật đầu, thở hổn hển mấy cái rồi sai người hầu để mình nằm trong xe.
Hạ Thiên Khánh cũng cáo biệt, thi lễ với Khương Phóng, Tịch Tà rồi hộ tống xe ngựa chậm rãi ra khỏi thành.
Tịch Tà không thích lải nhải bên tai người không có hứng, vì vậy bỏ Khương Phóng lại, tự mình tìm Lục Quá nói chuyện.
Đi tới ngoài quan sảnh của phó tướng doanh kỵ binh thì thấy Lê Xán ngồi ở trên bậc thang lười biếng phơi nắng, cẩn thận lau chùi mũi giáo.
“Sao lại ở chỗ này?” Tịch Tà cúi đầu nhìn dải lụa dài trắng như tuyết mà hắn ta buộc lên trên cán thương, không kiềm được hỏi: “Anh là thân binh của thiên tử, sao lại dùng màu trắng? Không lành đâu”.
Cuối cùng Lê Xán cũng ngẩng đầu: “Vậy dùng màu gì? Đen à?”.
“Đỏ son”.
Tịch Tà trả lời.
Lê Xán cười to: “Sau khi nhuốm máu thì tự nhiên sẽ thành màu đỏ”.
Hắn ta lắc cổ tay, mũi giáo kêu vù vù.
“Vậy thì phải đợi một trận rồi”.
Tịch Tà nói: “Kinh doanh phòng thủ Ly đô, nếu muốn kẻ nào đánh tới nơi này rồi đấu với anh thì khó lắm”.
Tịch Tà nói thế, hiếm khi Lê Xán cũng nghĩ như vậy.
Lục Quá đi ra đón từ bên trong, vừa hay nghe được, cũng cảm thấy lời này không sai.
Ánh sáng mặt trời lơ thơ đầu xuân chiếu lên trên mặt mọi người, ngẩng đầu nhìn qua tường thành, bên ngoài có vẻ trong xanh vạn dặm nhưng bầu trời lại đang có mờ đục, cơn gió lạnh thấu xương cuốn mây mỏng bay thấp nên mơ hồ, không thấy rõ thứ gì.
Thời tiết phiền lòng trong mà lại không trong như vậy đến hôm mùng bảy thì lại trở thành nắng ấm chiếu rọi khắp nơi, mây xanh gột rửa không trung.
Vừa sáng, hoàng đế đã mặc quần áo võ biền, truyền Vương Cử yết kiến ở cung Càn Thanh, dặn đi dặn lại: “Lúc này tái ngoại giá rét, băng tuyết chưa tan, đại quân nhất định không được vội vàng tìm địch, chỉ cần thận trọng chiếm giữ chỗ đồng cỏ và nguồn nước dồi dào, không cho Hung Nô cơ hội nghỉ ngơi lấy lại sức sau mùa xuân, đợi lương thảo sung túc, sau khi xuất quân lên bắc, khanh lại dẫn đại quân đi thảo phạt cũng không muộn.
Phải nhớ cho kỹ đấy”.
Vương Cử vâng mệnh, hoàng đế thấy đã đến lúc bèn lấy phù tiết và búa rìu[1] trao cho đại tướng quân Chinh Bắc Vương Cử, lệnh cho chỉ huy tổng cộng hai mươi vạn quân Chấn Bắc và kỵ binh Lương châu ra khỏi Nhạn môn, Xuất Vân, chinh phạt Hung Nô.
Hoàng đế đi ra ngoài điện, thoải mái dễ chịu nhìn sắc trời, hỏi nội thần bên cạnh rằng: “Các ngươi xem cái này có tính là điềm lành không?”.
Nơi đây còn có thể nghe thấy tiếng trông nhạc ngoài cửa Tử Nam, Vệ Ninh hầu Vương Cử giơ cao phù tiết và búa rìu, tấu nhạc dẫn đường, cờ xí vòng quanh, được trăm quan lần lượt tiễn xuất, tới miếu Võ Thần hiến sinh cầu phúc.
Nhưng điện Thanh Hòa lại im ắng tĩnh mịch, dường như phồn hoa của triều đình lập tức bị hút hết vậy.
Bao nhiêu tiền của người ngựa đều cấp cho đại quân chinh bắc, giả mà hai mươi vạn kỵ binh này thua trận tan tác thì nhất định xã tắc sẽ súp đổ.
Vì vậy Lý Cập thẳng thắn nói: “Cực kỳ đại cát ạ”.
Hoàng đế không nói gì, cất tiếng cười to đi mất.
Lý Cập nhìn Cát Tường, nghi ngờ hỏi: “Tôi nói sai gì rồi à?”.
Cát Tường lắc đầu cười bảo: “Hoàng thượng vâng mệnh trời, đại quân bắc phạt tất thắng, cần gì điềm lành tỏ rõ?”.
“Đại gia của tôi ơi!” Lý Cập hối hận không kịp, vả vào mồm mình một cái, giậm chân hỏi: “Nếu ngài nói trước thì chẳng phải tôi đã không bị chôn sống rồi ư?”.
“Vạn tuế gia là minh quân bậc nào chứ, sao lại so đo với ông?”
“Cát Tường!” Hoàng đế đã gọi ở phía trước, đợi Cát Tường đi nhanh lên trước mới thấp giọng hỏi: “Đã bao lâu trẫm chưa đến cung Tiêu Cát rồi?”.
“Bẩm hoàng thượng, ít nhất cũng đã hai tháng rồi ạ”.
“Không biết thân thể nàng ấy đã khá hơn chút nào chưa.
Hôm nay trẫm sẽ đi thăm nàng”.
“Vâng”.
Cát Tường cười thưa: “Giờ nô tỳ sẽ đi báo hỉ cho Hoà thục nghi”.
“Không cần.
Giờ trẫm lặng lẽ đến.
Nếu thân thể nàng ấy đã khỏe thì đi theo trẫm ngắm hoa giải sầu”.
“Vạn tuế gia nghĩ cho Hoà thục nghi như vậy, nương nương nhất định sẽ rất vui vẻ”.
Cát Tường nói nhưng thầm thấy làm lạ.
Hoàng đế không phải cái loại người biết quan tâm như thế, phàm là phi tần trong cung lộ ra chút sầu bi oán hận đã khiến hoàng đế mất kiên nhẫn, dần dà sẽ lảng tránh lạnh nhạt.
Chẳng biết điều gì làm hoàng đế đổi tính, chuyện xảy ra hai tháng rồi mới nghĩ đến chuyện an ủi Hoà thục nghi, đi ngắm hoa giải sầu với nàng.
Hoàng đế thay quần áo, người dẫn theo cũng không nhiều.
Cát Tường cười tủm tỉm gọi tiểu thái giám trước cửa cung Tiêu Cát lại, hỏi: “Nương nương đang làm gì đấy?”.
“Nương nương mới vừa ngủ trưa, đã dậy rồi, có điều…”
“Có điều làm sao?” Hoàng đế đã cười bước vào sân, đi nhanh đến bên ngoài tẩm cung.
Cát Tường vội vàng đẩy cửa ra cho hắn ta, hoàng đế vén bức rèm che lên, làm người bên trong giật mình.
Sắc mặt Mộ Từ Tư đã khôi phục vẻ hồng hào được bảy phần, gầy hơn trước kia một ít, vì thế mà hai mắt càng thêm đẹp đẽ sâu xa: “Hoàng thượng”.
Nàng nở nụ cười, sắc đẹp vẫn khiến hoàng đế khó thở trong nháy mắt, cơ thể mềm mại đã nhào vào lòng hắn ta, hoàng đế khóa chặt hai cánh tay, tim đập thình thịch.
“Hoàng thượng thứ tội”.
Mộ Từ Tư ngọ ngoạy, muốn hành lễ.
Hoàng đế vẫn không thả lỏng, cứ vùi mặt vào trong mái tóc dài rậm xõa tung của nàng.
Đợi người chung quanh đều quỳ xuống dập đầu, hô to vạn tuế, hoàng đế mới hồi phục tinh thần lại.
“Mới vừa dậy à?”
Mộ Từ Tư đỏ mặt nói: “Thần thiếp đang chải đầu.
Đây là hài thục nghi của cung QUế Hợp”.
Thiếu nữ đứng lên bên cạnh chỉ mặc quần áo dài màu xanh thẳm, bàn tay trắng như tuyết vẫn nắm chiếc lược gỗ đỏ tươi mạ vàng, mái tóc xoăn dài vây quanh khuôn mặt, có vẻ thanh tú không chân thật như đang tan chảy dưới ánh mặt trời.
“Thần thiếp Vệ thị, thỉnh an hoàng thượng”.
Hoàng đế hơi choáng váng, dục vọng không tên bỗng nhiên dâng lên: “Đây là…”.
“Bẩm hoàng thượng, đây là hài thục nghi của cung Quế Hợp, vào cung cùng một ngày với thần thiếp nhưng hoàng thượng chưa từng gặp”.
Mộ Từ Tư kiên nhẫn mìm cười nói ở phía sau hoàng đế: “Mấy ngày này thần thiếp ngủ không yên, nàng ấy bèn ở lại bên thần thiếp một lát.
Hoàng thượng?”.
“Hả? Cái gì?”
“Hoàng thượng ngồi bên ngoài một lát, đợi thần thiếp trang điểm xong nhé?”
Ánh mắt hoàng đế vẫn vấn vương trên người Vệ thị, hỏi thăm một cách rối bời: “Nàng tên gì?”.
“Thần thiếp Vệ thị”.
Hài thục nghi nói.
“Được, được”.
Hoàng đế lùi hai bước: “Các nàng tiếp tục rửa mặt chải đầu đi, trẫm ngồi bên ngoài”.
“Vạn tuế gia vẫn ổn chứ?” Cát Tường bưng trà thấp giọng hỏi.
“Sao lại không ổn?” Hoàng đế cười mất hồn mất vía.
Cát Tường xa xa đánh giá hài thục nghi hai lần rồi cười nói: “Hài thục nghi thật đẹp”.
“Hình như đã từng gặp ở đâu đó rồi.
Khanh cảm thấy thế nào?”
“Bẩm vạn tuế gia, nô tỳ không cảm thấy vậy”.
Cát Tường nói bừa.
Hài thục nghi đi theo Mộ Từ Tư đã bôi phấn lại lộ diện, son màu hoa hồng và châu ngọc gài trong tóc che đi sự lạnh lùng thuần khiết.
Tay áo đỏ lại phất chào một lần nữa, hoàng đế đưa tay kéo lấy cả hai vị phi tử.
“Nàng vào cung cũng gần một năm mà lại lạnh nhạt với nàng”.
Hoàng đế nói với hài thục nghi: “Hôm nay hiếm có, hai nàng hãy trò chuyện với trẫm đi”.
Nét mặt hài thục nghi rất hiếm vẻ nũng nịu xinh đẹp, bình tĩnh đáp lời.
Cát Tường thấy ánh mắt hoàng đế vấn vương mãi trên người hài thục nghi, sợ lạnh nhạt Mộ Từ Tư, bèn vội vàng góp vui, chọc cho hoàng đế và các phi tử cười không ngừng.
Dùng bữa tối xong, đến lúc nghỉ ngơi, hoàng đế vốn muốn ở lại cung Tiêu Cát nhưng Mộ Từ Tư lại đỏ mặt khó xử, tiếng nói nhỏ như tơ nhện: “Thân thể thần thiếp vẫn chưa khỏe hắn, thái y cũng nói… Chi bằng…” Nàng cười với hài thục nghi: “Hoàng thượng đến cung Quế Hợp đi”.
“Cũng được”.
Hoàng đế suýt nữa buột miệng khen Mộ Từ Tư giỏi đoán ý người.
Hài thục nghi trời sinh đã thùy mị phó thách cho trời, không thấy vui mừng quá đỗi, chỉ đứng dậy dẫn đường mời hoàng đế di giá.
Mộ Từ Tư cung tiễn hoàng đế đến ngoài cửa cung, trở về sai người mở ngăn kéo ra, gói hai mươi lượng bạc ròng giao cho thái giám thủ lĩnh cung Tiêu Cát: “Thưởng cho Lý Cập của cung Càn Thanh”.
Nàng mỉm cười: “Nhớ nói tiếng “đa tạ””.
Lúc này đêm đã khuya, ngọn nến trong trong thư phòng cung Càn Thanh đã đốt hết một lần.
Tịch Tà dụi mắt, nhân lúc Tiểu Thuận Tử thêm nến mới thì để bút xuống đi ra ngoài cửa cung hít thở.
Trong yên tĩnh, hắn có thể nghe thấy rõ ràng tiếng Lý Cập nhỏ giọng nói đùa với thái giám cung Tiêu Cát ở trong góc tối phía xa.
“… Kể từ đó, hoàng thượng không đến cung của Nghị phi nữa rồi”.
“Xem ra Vệ nương nương đó là một tiên nữ lặng lẽ vô dục, ắt hẳn dễ thao túng”.
Lý Cập cười nói: “Mộ nương nương nhanh chóng hồi phục, lúc được sủng hạnh lần nữa sẽ là ngày lành của đám nô tỳ chúng ta rồi”.
“Lý gia nói thật có lý”.
Tiểu thái giám đó không tiện ở lâu, tiếng bước chân lộp cộp đi xa.
“Thầy ơi, thay nến xong rồi ạ”.
Tiểu Thuận Tử đi ra mời Tịch Tà: “Thầy đang nhìn gì đấy?”.
Cậu ngẩng đầu nhìn bầu trời chật hẹp: “Sao đổi ngôi ạ?”.
Tịch Tà phì cười, trầm mặc một hồi mới nói: “Tiểu Thuận Tử, con cần phải nhớ, phàm là thứ mỹ lệ thuần khiết thì đều giống như sao đổi ngôi, sẽ không dài lâu.
Lúc con mê hoặc quyến luyến nó thì nó đã trầm luân tan biến rồi”.
“Dạ?” Tiểu Thuận Tử gãi đầu: “Cái gì được coi là thứ mỹ lệ thuần khiết ạ?”.
“Hoa mùa xuân, trăng đêm thu…”
Tiểu Thuận Tử cười ha hả: “Thầy ơi, thầy nói lời này, ngay cả con cũng phải nổi da gà khắp người rồi đây”.
“Lòng người”.
Tịch Tà đảo mắt nói: “Lòng người lương thiện là thứ dễ sa đọa nhất trần đời, cho nên…”
“Cho nên, không được cả tin”.
Tiểu Thuận Tử nói.
“Trẻ nhỏ dễ dạy.
“
“Lục gia đấy à?” Thái giám đề lĩnh quan phòng cung Càn Thanh của giám Ti lễ nghe thấy tiếng Tịch Tà bèn tiến lên phía trước nói: “Khương Thống lĩnh bảo tôi truyền thư tới, phủ của tổng đốc nhung chính của kinh doanh Hạ Dã Niên truyền tin đến nói Hạ đại nhân đương nguy kịch”.
Bệnh của Hạ Dã Niên tái đi tái lại giằng co gần nửa tháng.
Vì cùng làm việc ở kinh doanh, Tịch Tà không những tự mình đi thăm một lần, còn phụng mệnh vua tới thăm hỏi mấy lần.
Bởi vì thái y nói thật nên Hạ phủ đã lặng lẽ chuẩn bị quan tài từ lâu, người trong nhà đều vây quanh phòng bệnh, chờ gã dặn dò hậu sự.
Đến ngày mười chín tháng Hai, Hạ Dã Niên lại đột nhiên có tinh thần, mở mắt nói chuyện, gọi người lau mặt cho gã rồi gắng gượng ngồi dậy, còn uống ít canh sâm.
Câu đầu tiên gã hỏi Hạ Thiên Khánh hầu hạ bên giường: “Có ai… trong triều đình ở đây không?”.
“Có Khương Phóng ạ.
Mấy ngày nay hôm nào cũng tới”.
“Hiếm thật”.
Hạ Dã Niên cố hết sức bảo: “Mời vào đi, anh có chuyện muốn nói”.
Hạ Thiên Khánh hơi chần chừ rồi mới đi ra ngoài mời.
Khương Phóng sải bước vào phòng, vừa nhìn xuống đã nói: “Xem ra tổng đốc đại nhân đã bình phục rồi”.
Hạ Dã Niên lắc đầu cười nói: “Hồi quang phản chiếu[2] mà thôi”.
Khương Phóng ngồi ở bên cạnh gã bảo: “Anh Hạ có gì dặn dò, cứ việc nói thẳng”.
“Anh Khương…” Hạ Dã Niên thấy mọi người đều đã lui ra, mới cất tiếng: “Hai ta tòng quân cùng năm, cùng đánh Hung Nô, có tính là bạn bè đồng bào không?”.
“Đương nhiên”.
“Hai ta cùng được chọn làm thị vệ đại nội, nâng đỡ lẫn nhau, cũng có lúc liên thủ ngăn địch, có tính là tình cảm đồng liêu không?”
“Có”.
“Đã như vậy, anh hãy nói cho tôi biết, tôi dẫn binh làm hết chức trách hơn hai mươi năm, đánh đâu thắng đó, hôm nay, không được chết trận trên sa trường như ý nguyện, ngược lại trong tay chẳng binh chẳng tướng, không kiếm không giáo.
Trên thì chúa công nghi kỵ; dưới thì thuộc hạ cũ ly tán là vì cớ gì?”
Gã nói liên tục, không thấy oán hận chất vấn chút nào làm Khương Phóng ngập ngừng mãi.
Hạ Dã Niên mỉm cười: “Anh Khương, mười mấy năm trước, anh, tôi, và cả Lưu Tư Hợi cũng có thể xưng là “Tam Tuấn Quân Bắc”, đã từng cùng chí hướng nên thành tri kỷ, từ bao giờ lại xa lạ như thế?”.
Khương Phóng đáp: “Chỉ vì người anh Hạ huynh hầu hạ thực sự không chỉ có một mình đương kim thánh thượng.
Người hai ta bảo vệ khác nhau, vì vậy dần dần xa lạ”.
“Không sai, hai ta không có thù riêng, nhưng dòng nước trong triều chảy xiết, chọn chủ như chọn gỗ, tôi đã ôm lầm một cây gỗ mục nên mới chìm, không trách ai được”.
Gã thở hổn hển, lại phấn chấn tinh thần: “Trong năm mươi năm, cả họ Hạ của tôi có bảy viên thượng tướng.
Đến thế hệ tôi, chỉ còn lại có hai anh em tôi tòng quân.
Tôi sắp không xong rồi, mà em Thiên Khánh của tôi cũng không phải kẻ hiểu chuyện lắm, ỷ vào chức quan của tôi nên từ trước đến giờ không biết nặng nhẹ.
Anh Khương đồng liêu với tôi hai mươi năm, giống như anh trưởng của nó vậy, xin anh Khương thay tôi săn sóc, dạy dỗ nó”.
Khương Phóng bảo: “Nếu anh Hạ đã nói như vậy, tôi vốn không nên chối từ, chỉ là Thiên Khánh đã trưởng thành rồi, chưa chắc đã muốn nghe lời tôi”.
“Anh là chủ tướng của nó, lấy quân lệnh ra trói buộc nó thì sẽ phải theo thôi.
Tôi không muốn nó giống tôi, cuốn vào phân tranh của triều đình.
Chỉ mong sao nó có thể một lòng một dạ làm quan quân, giết địch đền nợ nước.
Cho dù một ngày hi sinh vì nước, cũng chết có ý nghĩa, hơn tôi vạn lần”.
“Thì ra là thế”.
Khương Phóng gật đầu nói: “Tôi đã hiểu ý của anh Hạ rồi”.
“Được”.
Hạ Dã Niên không ngừng mỉm cười, tinh thần lại bắt đầu tan rã.
Khương Phóng thấy thế thì vội vàng gọi đại phu và thân thích của Hạ Dã Niên đến, Hạ phủ bỗng chốc rối ren.
Khương Phóng ngồi trong phòng khách nhỏ cách đó không xa, nghe được tiếng bước chân đi vào không ngừng, sau gần nửa canh giờ, hình như Hạ Dã Niên hét to một tiếng: “Người đã quên ta rồi…”.
Phòng bệnh chợt im bặt, sau đó là tiếng kêu đau thương đứt ruột đứt gan.
Khương Phóng lặng lẽ đi ra Hạ phủ, tiếng khóc đã xuyên qua mấy lớp sân mà truyền ra.
Thằng nhóc trước cửa dường như mang theo vẻ ngỡ ngàng thầy bại thì tớ cụp đuôi, sửng sốt hồi lâu mới vội vàng dắt ngựa đến cho anh ta.
Thời tiết quả là ấm áp.
Khương Phóng thả dây cương mặc cho ngựa chạy chậm, trái tim bị ánh mặt trời nướng thành một cục nóng hổi lờ đờ.
Biết rõ là khổ sở như lửa đốt nhưng lại không có sức lực phát ra.
Khương Phóng bị nỗi bất đắc dĩ dây dưa hồi lâu, ngẩng đầu lên thì phát hiện ngựa đã dẫn mình đến cầu Song Thu.
Trước ngõ Lan Đình tan hoang đang đợi tu sửa, cổng chào bị đốt nhưng đã đổi thành lầu hoa ba tầng, thợ thủ công đang tỉ mỉ tô màu lên trên đòn dông.
Lán trúc xanh biếc dọc đường cũng đã khôi phục như cũ, biến ánh mặt trời thành màu xanh lá mạ, chiếu xuống người đi đường khiến mặt mày ai nấy đều đáng sợ như ma.
Người của viện Tê Hà đã tới đón chào từ xa.
Tê Hà nghe tin bèn vội vàng điểm son lần nữa, chải đầu lần nữa rồi mới chạy tới.
“Sao gần đây không thấy ngài thế? Cửa khẩu Tiểu Hợp bận rộn lắm à?” Nàng ôm lấy tám lưng rắn chắc của Khương Phóng từ phía sau, nhỏ giọng hỏi.
Khương Phóng nhìn trúc mới ngoài cửa sổ, vẫn không nói gì.
“Hạ Dã Niên chết bệnh rồi à?”
Cả người Khương Phóng run lên, gật đầu: “Trước kia gã cũng có thể xưng là đại tướng trong cả vạn người không có lấy một, kết quả lại phải chịu sự nghi kị lạnh nhạt của hoàng đế, hậm hực thành bệnh, ôm tiếc nuối mà chết.
Tôi cũng giống như gã thôi, thân bất do kỷ cuốn trong vòng xoáy phân tranh của triều đình.
Thói đời hiện nay, muốn làm một võ phu thuần túy cũng khó khăn đến thế sao?”.
Gương mặt Tê Hà vuốt ve lưng anh ta, thở dài bảo: “Tuyệt đối không thể nói như vậy.
Thời loạn mới xuất hào kiệt, mọi người tự có mệnh trời của riêng mình”.
“Tê Hà…” Khương Phóng xoay người ôm lấy nàng nói: “Từ nhỏ tôi đã là võ phu, cũng chả có tư chất ngang dọc đất trời gì.
Cô nói cho tôi biết, đến bao giờ, người như tôi mới có thể một lòng một dạ chiến đấu, trong lòng không còn hổ thẹn tiếc nuối đây?”.
Tê Hà sẵng giọng: “Sao ngài lại hổ thẹn tiếc nuối?”.
“Ái tướng lúc vương gia chinh bắc trước kia cũng chỉ có Lưu Tư Hợi và tôi còn ở trong quân đội.
Nói ra thì lại ai vì chủ nấy, ai biết sau này có thể gặp lại trên chiến trường hay không? Thứ mà cô, tôi và chủ nhân nghĩ đến mỗi giờ mỗi khắc đều là người Trung Nguyên tự giết lẫn nhau.
Dù tôi nhấc tay diệt vạn địch, lập được chiến công không ai bằng thì có gì vinh quang tự hào?”
“Ngài ấy à!” Tê Hà che miệng anh ta lại, mỉm cười nói: “Ngài cũng đã bốn mươi tuổi rồi, sao vẫn nghĩ không thông như thế? Tính mệnh con người sẽ tiêu vong, danh dự con người sẽ bị phỉ báng tổn hại, trinh tiết con người sẽ bị vấy bẩn, chỉ có tranh đấu của con người là sẽ mãi không dừng lại.
Chinh chiến sinh ra vì tội lỗi tham dục của con người, trước này không hề bàn đến vinh quang tự hào, càng không có hổ thẹn tiếc nuối.
Uổng cho ngài tòng quân nhiều năm, vong hồn dưới đao ngài mà nghe ngài nói như vậy, há lại không oán hận vì bị chết oan khuất ư?”.
“Là tôi tự làm phiền mình”.
Khương Phóng cười nói.
“Biết vậy thì tốt”.
Tê Hà nhếch miệng cười: “Đêm nay…”.
Nàng nói: “Ngài ở lại chỗ này à?”.
Tiếng nói của nàng chính như tiếng gió phất nhẹ qua rừng trúc ngày xuân lúc này, hơi khàn và đầy vẻ biếng nhác, làm Khương Phóng bất giác gật đầu.
“Tôi sai người đến phủ nói một tiếng với bà chủ”.
Tê Hà sửa sang vạt áo, lưu luyến buông tay Khương Phóng ra rồi căn dặn thằng nhỏ trước cửa nhanh chóng đi báo tin, xong xuôi lại gọi a hoàn nhỏ bưng chậu nước rửa tay hầu hạ Khương Phóng thay quần áo.
Chưa được bao lâu đã có người vội vã bẩm báo với Tê Hà, vẻ vui mừng trên mặt Tê Hà bỗng nhiên biến mất, quay lại nói: “Người trong phủ đang tìm ngài khắp nơi đấy! Trong cung cho đòi gấp kìa”.
“Vậy ư?” Khương Phóng nhảy lên đeo yêu đao, tóm lấy Tê Hà: “Cô mất hứng rồi à?”.
“Vẫn ổn”.
Cho dù lưu luyến nhưng vẫn chưa tới thời cơ được ở bên nhau, Tê Hà quay mặt đi bất đắc dĩ giận dỗi.
Khương Phóng nắm chặt lấy tay nàng rồi chạy đi như bay.
“Oan gia”.
Tê Hà trách móc.
“Sao Khương lão gia lại đi thế ạ?” Đám a hoàn vây lại lo sợ hỏi.
Hạ Dã Niên vừa chết, hoàng đế đã triệu Khương Phóng vào cung gấp, ắt hẳn chức vị tổng đốc kinh doanh chắc chắn thuộc về anh ta rồi.
Thế thì anh ta không thể kiêm chức thống lĩnh thị vệ nữa, từ nay về sau sẽ thường trú ở cửa khẩu Tiểu Hợp, khó mà gặp lại được.
Vì vậy, Tê Hà than thở: “Khương lão gia vội thăng quan rồi, đợi thăng quan xong thì sẽ không tới đây thường xuyên nữa”.
Trong lòng nàng khó tránh khỏi ấm ức, mình vẫn còn nhắc mãi nhưng chỉ nỗi lo này chẳng bao giờ thoáng qua trong lòng Khương Phóng.
Lúc bấy Khương Phóng và Tịch Tà đều đang vắt hết óc vì người được chọn lĩnh chức thống lĩnh thị vệ, bàn bạc ở ngự tiền thì chỉ có phó thủ của Khương Phóng là Trịnh Bích Đức thăng chức theo thứ tự.
Hoàng đế nói: “Mặc dù tài cán của người này không sánh bằng hai khanh Hạ, Khương nhưng cũng tuân theo quy cũ, những năm gần đây không phạm sai lầm.
Thôi thì cứ để hắn ta làm đi”.
Hầu hết người tâm phúc đều quá trẻ, dù cất nhắc lên nhưng khó có thể khiến mọi người tin phục, ngay cả Tịch Tà cũng lén than thở: “Đúng là thời buổi rối loạn.
Vốn định để Hạ Dã Niên cản một trận gió cho chúng ta để dễ dàng nắm được cả kinh doanh lẫn cung đình.
Giờ xem ra không thể chỉ trông cậy vào người khác được”.
Khương Phóng hỏi: “Người khác? Mặc dù tài cán của Trịnh Bích Đức bình thường nhưng cũng là thuộc hạ cũ của lão vương gia.
Người mình mà chủ nhân chỉ là ai chứ?”.
“Đó cũng là vết thương trí mạng của hắn ta.
Trừ anh ra, ta thực sự không muốn nhường chuyện phòng thủ trong ngoài đại nội này đến tay kẻ khác.
Kinh doanh mới được chấn hưng, lại phải có người như anh áp chế.
Du Vân Dao thông minh hiếm có, vốn có thể âm thầm giúp đỡ Trịnh Bích Đức, nhưng nay đành phải đặt ngoài cửa Tử Nam.
Mọi việc khó lưỡng toàn, ta buộc phải đi lại ở phòng trực của thị vệ nhiều hơn”.
“Làm gì có chuyện nội thần công khai nhúng tay vào việc của thị vệ? Hơn nữa còn có thái giám đề đốc của giám Ti lễ kia mà”.
“Ta sẽ không vô duyên vô cớ chọc vào họ.
Thường ngày thị vệ phòng thủ tự có lệ cũ để điều hành, ắt sẽ không có sai lầm.
Chỉ sợ có tình hình đặc biệt thì Trịnh Bích Đức sẽ luống cuống tay chân thôi”.
Khương Phóng gật đầu.
Nếu bản thân Tịch Tà đã muốn lo chuyện này thì không thể tốt hơn.
Anh ta bèn yên tâm nhận ý chỉ của hoàng đế, tới cửa khẩu Tiểu Hợp nhậm chắc, còn Tịch Tà sẽ lui tới hai nơi, đích thân mang đến tin tức từ đại nội.
Lúc này dưới sự thống lĩnh của Lương vương Tất Long, đại quân đã ra ngoài Nhạn môn năm trăm dặm, đóng quân ở cửa ải Xuất Vân.
Ngày hai mươi sáu thàng Hai, Vương Cử hội họp đại quân, tiếp tục tiến lên một trăm dặm.
Hai vạn kỵ binh chia làm bốn đường, chia nhau xây hào doanh ở phía nam Nỗ Tây A Hà để canh giữ, ngăn chặn bộ tộc Hung Nô xuôi nam vào đầu xuân.
Cùng ngày, Như Ý cũng thuận sông Hàn đặt chân vào đất Đại Lý.
Thái tử Đại Lý Đoàn Bỉnh đích thân bến tàu nghênh tiếp, công chúa đáp lễ cách lớp mành, không