Trận hỏa hoạn ở ngõ Lan Đình hôm mười sáu tháng Giêng đã ầm ĩ đến mức khiến kinh sư không yên, triều đình chấn động.
Tạm chưa nói đến không dưới trăm người bị bỏng, bị giẫm đạp, trong hơn ba mươi người chết còn có một vị chủ sự chính lục phẩm của bộ hộ bị thương nặng không chữa khỏi, hôm sau đã tắt thở.
Sau nỗi kinh hãi, hoàng đế hết sức nghi hoặc: “Mệnh quan triều đình lưu luyến câu lan[1] đến nỗi bỏ mạng là cớ làm sao? Thanh sắc[2] thế nào mà làm ông ta không màng kỷ cương triều đình, không màng mặt mũi của mình, không màng tiền đồ, tính mạng của mình? Người như vậy chết lại hay, trẫm đỡ phải tự mình khai đao với ông ta”.
La Tấn chỉ sợ bị liên lụy vào trong nên thấp thỏm lo âu, ống tay áo không ngừng run rẩy.
Khương Phóng thì ngậm chặt miệng, sắc mặt cũng rất khó coi.
Thành Thân vương vừa định mở miệng, hoàng đế đã nhìn y nói: “Không cần nói nữa.
Có biết kẻ gây chuyện là ai không? Ty binh mã ngũ thành vẫn chưa tìm bắt được à?”.
“Vâng”.
Đề đốc binh mã ngũ thành Viên Tấn cúi đầu lĩnh mệnh: “Mặc dù chưa bắt được kẻ gây chuyện, nhưng đám cháy xảy ra trước cửa viện Tê Hà, ngõ Lan Đình, chắc chắn là có dính dáng đến kẻ gây ra họa nên thần đã tìm bắt thẩm vấn…”.
“Được rồi!” Hoàng đế cảm thấy nói tiếp thì thực sự làm nhục sự văn nhã của triều đình, không nhịn được quát ngừng lại: “Khanh mau mau đi làm là được”.
Hôm nay vốn muốn sắp xếp các chuyện lớn ở kinh doanh nên từ sáng sớm hoàng đế đã vui sướng hưng phấn, ngờ đâu lại bị một vụ án ở ngõ Lan Đình quấy rối tình hình, lúc này trông Viên Tấn lui ra ngoài thì vô cùng mất hứng.
Lưu Viễn nói: “Hoàng thượng bớt giận.
Hôm nay nội các đều tại đây, ắt hẳn vạn tuế gia có dụ thị quan trọng hơn…”.
“Đúng thế”.
Hoàng đế bảo: “Thiết lập lại kinh doanh ở cửa khẩu Tiểu Hợp, đến nay vẫn chưa có thống soái, trẫm muốn lệnh cho thống lĩnh thị vệ Hạ Dã Niên làm tổng đốc nhung chính của kinh doanh.
Các vị ái khanh có ý kiến khác không?”.
Mọi người đều biết Hạ Dã Niên không được hoàng đế tin tưởng, chẳng biết tại sao hôm nay lại muốn giao bốn vạn tinh binh cho gã.
Mọi người hết sức bất ngờ, bỗng chốc nhìn nhau, không biết ý của hoàng đế nên không chịu nói trước.
Chỉ có Lưu Viễn đáp: “Hạ Dã Niên đã trải qua cả trăm trận chiến, trung thành, tận tâm, nhiều năm qua bảo vệ thánh giá, không có sơ hở.
Thần thấy rất thỏa đáng”.
Hoàng đế vui vẻ bảo: “Vậy là tốt rồi.
Có điều năm ngoái Hạ khanh thường xuyên mang bệnh, trẫm rất lo lắng.
Hạ khanh là bề tôi đắc lực, trẫm không đành lòng ép chịu đựng gánh nặng việc quân.
Khương Phóng, khanh và Hạ khanh cùng dẫn dắt thị vệ và cấm quân hai cung nhiều năm, hòa thuận với nhau.
Trẫm muốn lệnh cho khanh cùng nhau giải quyết việc phòng thủ kinh doanh, ý khanh thế nào?”.
Khương Phóng trầy trật đứng lên đáp: “Thần xuất thân thấp hèn, không có tài lớn có thể gánh được trọng trách, tất nhiên sẽ đền đáp đến thịt nát xương tan”.
“Tốt”.
Hoàng đế mỉm cười gật đầu.
Khương Phóng nói tiếp: “Chỉ là chức vụ thủ vệ hai cung nặng nề, sau khi hai người chúng thần dời đi thì ai sẽ kế nhiệm ạ?”.
Lưu Viễn đã lắc đầu tâu: “Hoàng thượng, chức vụ thị vệ liên quan đến an nguy của thánh thượng, không được có sơ xuất.
Hạ Dã Niên và Khương Phóng dời đi đồng thời hết sức không ổn”.
Hoàng đế nhíu mày: “Khương khanh, đành để khanh vất vả, tạm thời giữ chức thống lĩnh thị vệ và cấm quân hai cung, kiêm việc của kinh doanh.
Thế nào?”.
La Tấn nhìn thấu đầu mối, vội nói: “Đúng vậy, hoàng thượng thánh minh, như vậy vô cùng thỏa đáng”.
Hoàng đế bèn bảo: “Tốt, vậy thì nội các soạn chỉ đi”.
Khương Phóng vẫn không thức thời tranh nói một câu: “Hoàng thượng, trong kinh doanh có rất nhiều quan quân tỉnh ngoài, thần và Hạ thống lĩnh đều xa lạ, có thể điều động một nhóm thị vệ thâm niên trong cung, dùng để truyền đạt quân lệnh, kiểm tra quân kỷ không ạ?”
Hoàng đế nói: “Cho phép thỉnh cầu của khanh”.
Lúc bấy Ông Trực cũng đã nhận ra, bèn hỏi: “Trước nay việc thống lĩnh kinh doanh do tổng đốc, việc giám sát thì do nội thần.
Lần này thiết lập lại kinh doanh, có làm theo chế độ cũ, để nội thần giám quân không ạ?”.
La Tấn cũng nói: “Kinh doanh hộ tống thánh giá, bên trong thì phòng giữ kinh sư, ở bên ngoài thì theo giá đi chinh phạt.
Nếu kinh doanh chuyển quân ra ngoài, an nguy của hoàng thượng tất gắn liền với quân đội, chức giám quân không thể coi thường, nên để nội thần thân tín nhất bên cạnh thánh thượng đảm đương”.
Hoàng đế vui mừng, hiếm khi mỉm cười với La Tấn: “Lời ấy của khanh có lý.
Tịch Tà…”.
Hắn quay đầu hỏi thiếu niên trong góc: “Khanh có bằng lòng giám quân kinh doanh vì trẫm không?”.
Tịch Tà cười đáp: “Bẩm hoàng thượng, nô tỳ trẻ người non dạ, không biết giám quân là việc thế nào”.
Hoàng đế nói: “Khanh có thể làm được việc gì chứ? Chỉ bảo khanh làm chân chạy truyền tin tức thôi, đỡ khỏi lúc nào cũng ở trước mặt trẫm đến ngán ngẩm”.
“Đã như thế, nô tỳ xin tuân thánh chỉ”.
Mọi người đều thở một hơi nặng nề.
Việc canh phòng hai cung được giao vào tay Khương Phóng một cách danh chính ngôn thuận.
Hạ Dã Niên thì bị hoàng đế đuổi ra khỏi cung thành một cách quang vinh, rõ ràng là tổng đốc kinh doanh, thực tế lại bị Khương Phóng và Tịch Tà tước mất quyền lực thành chức danh giả.
Đến khi giao cho nội các danh sách thị vệ được điều phái tới kinh doanh thì ý của hoàng đế càng là tỏ tường.
Những thị vệ phụng chỉ dời đi đều là thuộc hạ cũ và tâm phúc nhiều năm của Hạ Dã Niên, bây giờ cuối cùng cung Thanh Hòa này cũng đã trở thành cung đình của mình hoàng đế.
Thế lực của hai phái thái hậu phiên vương xuyên từ ngoài cung vào thẳng cung Càn Thanh như lưỡi dao sắc bén bị một lần hành động quét sạch.
So với mấy trăm quan tướng mà hoàng đế đặc cách cất nhắc trong kinh doanh mà nói thì ba mươi lăm thị vệ này chẳng qua chỉ là một tốp nho nhỏ, không đáng trọng dụng, sẽ lặng lẽ im ắng trong quân doanh ấy.
Vì thế tâm trạng của hoàng đế đã tốt hơn, giữ Thành Thân vương lại vườn Tử Nam cưỡi ngựa bắn cung.
Thành Thân vương thấy Tịch Tà không ở gần nên chẳng có hứng thú gì, qua quýt nửa ngày mới xin cáo lui về phủ.
Lúc cưỡi ngựa đi trên đường lớn Chu Tước, y thấy nghi trượng của đề đốc binh mã ngũ thàng nép cờ xuống định tránh ra thì vội sai người cưỡi ngựa mời Viên Tấn đến.
“Miễn lễ, miễn lễ”.
Thành Thân vương thấy hắn ta muốn nhảy xuống ngựa hành lễ thì mau chóng thúc ngựa lên kéo lại.
Hai người đi song song, Thành Thân vương dần nhắc đến viện Tê Hà.
Viên Tấn cười nói: “Vương gia nói muộn quá.
Chiều nay đã phóng thích rồi ạ”.
“Đã thả ra rồi ư?” Thành Thân vương ngẩn ra: “Vì sao?”
Vẻ mặt Viên Tấn có chút xấu hổ: “Vương gia cũng nói đám cháy ở ngõ Lan Đình vốn không liên can đến viện Tê Hà, đã như vậy thì cần gì tạm giữ những người phụ nữ này ở trong nha môn chịu tội chứ?”.
Thành Thân vương lập tức cười bảo: “Đúng vậy.
Thế đã tóm được nghi phạm chưa?”.
“Sau buổi trưa, Tịch Tà trong phòng sách có đến một chuyến, đã chỉ cho thần một câu: Nếu vô ý gây cháy thì tất nhiên không có nghi phạm, làm ầm ĩ khiến kinh sư không yên, hoàng thượng cũng chẳng vui vẻ gì đâu”.
“Đúng vậy”.
Thành Thân vương gật đầu cảm thán: “Hắn là người hiểu lòng dạ hoàng thượng.
Vì chuyện này mà hắn cố ý chạy ra khỏi cung à?”.
“Chắc là thế ạ”.
Viên Tấn cười, lên tiếng chào cáo từ.
Thành Thân vương rung động trong lòng, trở về phủ bèn gọi Triệu sư gia tâm phúc nhất tới, sai gã tự mình đến viện Tê Hà một chuyến, dò la xem Tịch Tà thường lui tới với ai, đối tốt với cô nương nào nhất trong viện Tê Hà các loại.
Tê Hà không dám coi thường việc này, vẫn bảo Khương Phóng báo cho Tịch Tà biết.
Tịch Tà cau mày hỏi: “Có ý gì?”.
Khương Phóng cười đáp: “Thành Thân vương cho rằng chắc chắn gia cố ý chạy đến ty binh mã ngũ thành nói giúp là vì cô nương nào đó.
Y không phải là một kẻ an phận, đã muốn lôi kéo gia từ lâu nên mới hỏi thăm rõ ràng để sau này dễ bề tính toán gì đó đây mà”.
“Khiến y nhọc lòng rồi”.
Tịch Tà không khỏi cười nói: “Một cô Hải Lâm mà thôi, y thích làm gì thì làm”.
“Vâng, tôi sẽ nói với Tê Hà”.
Khương Phóng đáp, lại dâng quân sách tới kinh doanh: “Hiện nay võ quan phụng lệnh điều vào kinh đã gần như đến đông đủ cả rồi, thẩm tra đối chiếu với thủ lệnh của bộ binh đều không sai”.
“Hạ Dã Niên thì sao?” Tịch Tà hỏi: “Không gây phiền phức à?”.
“Gã rất khôn khéo, nhận việc xong vẫn ở nhà dưỡng bệnh”.
Tịch Tà lật từng tờ quân sách ra xem, đột nhiên ngửa mặt cất tiếng cười to.
Khương Phóng ngạc nhiên hỏi: “Gia cười gì thế?”.
Tịch Tà đáp: “Cười tôi tự cao thông minh, chỉ nói hắn bịa ra một cái tên, không ngờ xem kỹ trên quân sách lại có người như vậy thật.
Thảo nào nhiều tai mắt trong kinh như vậy mà tìm suốt hai ba ngày vẫn không thấy hắn, thì ra đúng là trốn trong kinh doanh”.
Khương Phóng nhìn lên hướng tay hắn chỉ, thấy dưới hai chữ “Lê Xán” ngay ngắn, có người ký lên rồng bay phượng múa, không khỏi cười to: “Chẳng lẽ là cùng một người?”.
“Xem chữ này ngang ngược đến thế đã biết là không tệ rồi”.
Hôm sau, Tịch Tà vâng lệnh vua đến kinh doanh tuần sát, gặp Khương Phóng lúc sáng sớm rồi ra khỏi thành từ cửa Phủ Dân, chạy băng băng tiếp bốn mươi dặm thì tới cửa khẩu Tiểu Hợp.
Doanh trại quân đội dựa vào núi non, khe suối chảy quanh, xây công sự[3] từ đá, đông tây đều có cửa thành xây bằng gạch, nam bắc thông dòng, bốn góc đều có lầu quan sát và lỗ châu mai.
Khương Phóng sai người cầm cờ lệnh đi đầu, hô mở cửa thành.
Quan tọa doanh đi ra cúi người dẫn vào, tất cả đều ghìm ngựa chậm lại, tới trước nha môn trung quân thì xuống ngựa, Khương Phóng và Tịch Tà nghỉ ngơi ở hậu đường.
Tịch Tà ngồi đối diện quan tọa doanh, nói: “Phiền tướng quân mời du kích Ngô châu là Lê Xán tới hậu đường nói chuyện”.
Khương Phóng lắc đầu cười gượng: “Công công lại định xử trí hắn ta thế nào?”.
“Xử trí?” Tịch Tà cười nói: “Đại tướng như thế, cầu còn chẳng được, sao lại nhắc đến hai chữ “xử trí”?”.
Ngoài cửa vang lên tiếng bước chân nhỏ nhẹ, có người báo danh: “Mạt tướng Lê Xán cầu kiến giám quân đại nhân”.
Tịch Tà bảo Khương Phóng tránh đi rồi nói: “Mời”.
“Thuộc hạ Lê Xán xin vấn an giám quân đại nhân”.
Thanh niên cao to tiêu sái tiến đến ôm quyền thi lễ, giữa chân mày đen nhánh lại là vẻ đoan chính trang nghiêm vô tội.
Khóe miệng Tịch Tà đã cong lên, không khỏi khen ngợi sự trấn định can đảm và vô liêm sỉ của hắn ta.
“Nô tỳ là một kẻ hèn mọn trong cung, tướng quân không cần khách sáo”.
Tịch Tà khom người: “Mời ngồi”.
“Dạ”.
Lê Xán cung kính ngồi ở bên cạnh Tịch Tà, hỏi: “Giám quân đại nhân gọi mạt tướng đến, có gì dạy bảo ạ?”.
“Nào có điều gì dạy bảo chứ? Người tập võ chỉ coi so tài mài giũa là chuyện vui”.
Tịch Tà cười nói: “Ngày đó hai ta còn chưa phân thắng bại, hôm nay phân cao thấp được chứ?”.
Lê Xán thấy hắn nói thẳng một cách sảng khoái thì lại hơi kinh ngạc, ngẫm nghĩ một lát mới thở dài nói: “Tôi hiểu ý công công.
Nhưng tôi đã thay hồn đổi xác rồi, sau này cam nguyện nghe công công sai khiến, xin công công nương tay”.
Tịch Tà lấy làm lạ, hỏi: “Anh thân là mệnh quan triều đình lại ám sát nội thần tâm phúc của hoàng thượng.
Sự tình đã bại lộ, ắt bị tội chết, dựa vào đâu mà cò kè bớt một thêm hai?”.
“Không đúng”.
Lê Xán sát lại gần: “Chuyện ấy là vì công công lạm sát hòa thượng Văn Thiện mà ra, nói gì mà phụng mệnh vua trừ gian, công công coi tôi là trẻ con à?”.
Tịch Tà cười: “Nói đến đây, hai ta lại là kẻ cùng hội cùng thuyền đấy.
Dù tôi không giết ông ta diệt khẩu thì sau đó anh cũng sẽ không bỏ qua cho ông ta.
Dù sao thì anh cũng là người ngồi ngôi cửu ngũ trong pháp nhãn của Văn Thiện.
Nếu không ngu ngốc thì sẽ biết lấy việc này ra uy hiếp không có tác dụng gì”.
“Vâng vâng vâng”.
Lê Xán gật đầu lia lịa nói: “Ngài nói đúng.
Vả lại bây giờ tôi nằm trong lòng bàn tay của ngài, chỉ cần ở trong kinh doanh này thì ngài sẽ có cả nghìn cách lấy mạng của tôi”.
Đầu lông mày Tịch Tà cau lại, bảo: “Anh viết trong lý lịch là phụ mẫu đều mất, tứ cố vô thân, cũng chẳng có nỗi lo về sau, với bản lĩnh của anh, chạy khỏi kinh thành dễ như trở bàn tay, cần gì ở lại trong kinh doanh không rời?”.
Lê Xán cất cao giọng nói: “Tại hạ là mệnh quan triều đình, chịu ơn vua, sao dám không dốc hết sức đền đáp hoàng thượng? Sao có thể vì thù oán riêng với công công mà…”.
“Ha ha”.
Tịch Tà đang yên lặng uống trà, đột nhiên bật cười, lập tức cắt ngang lời phân trần sục sôi của hắn ta.
Lê Xán hỏi: “Công công?”.
Tịch Tà nhìn chằm chằm vào trong sắc trà màu xanh biếc, phản chiếu ánh sáng dập dềnh lên mặt hắn, ớn lạnh bức người, ánh mắt mỉm cười tức thì chuyển thành lạnh lẽo.
Lần đầu tiên Lê Xán không tự chủ được phải né tránh ánh mắt.
“Có chuyện nhất định phải làm ở trong kinh à?”
“Không có!” Lê Xán biến sắc, thấp giọng nói.
“Không có thì tốt”.
Hình như Tịch Tà cũng thở phào nhẹ nhõm, đoạn cười nói: “Tôi chỉ thấy lạ, sao người như anh lại cúi đầu xin tôi khoan dung.
Vừa mới nói cái gì ấy nhỉ? Anh nguyện để tôi sai khiến ư?”.
“Hay là thôi vậy”.
Lê Xán cười gượng nói: “Tôi không lừa bịp người như ngài được.
Nếu ngài muốn giết tôi thì cứ ra tay, tôi chờ là được.
Tội gì để ngài thao túng trong tay, sau này chết không minh bạch”.
“Được! Cũng coi như anh có chút can đảm”.
Tịch Tà vỗ tay cười, giọng điệu đoan chính, lại nói: “Tướng quân lo lắng chuyện không đâu rồi.
Hôm nay mời tướng quân tới, nguyên là vì nô tỳ đã bẩm với Khương thống lĩnh phép dùng giáo của Lê tướng quân xuất chúng, trong nước chưa gặp được địch thủ.
Sau khi bàn với Khương thống lĩnh, cảm thấy nếu tướng sĩ kinh doanh được tướng quân chỉ dạy huấn luyện phép dùng giáo thì quả là thượng sách.
Ý tướng quân thế nào?”.
Dường như thanh niên sát khí ngút trời trong hội đèn Nguyên tiêu hoàn toàn không có can hệ với hắn vậy.
Vẻ mặt Lê Xán vẫn như thường, giọng nói kiêu ngạo, mỉm cười lĩnh mệnh: “Vâng mệnh trước quân, nào dám không theo?”.
Tịch Tà gật đầu không nói.
Lê Xán đã lui về trong doanh trại, quả nhiên nhận được thủ lệnh sai hắn ta dạy dùng giáo gậy trong kinh doanh.
Thao luyện trong kinh doanh hết sức sít sao.
Khương Phóng phải bôn ba giữa Ly đô và cửa khẩu Tiểu Hợp, tuy là khổ cực nhưng không dám thả lỏng một ngày.
Tịch Tà hầu giá trong thư phòng, chỉ thỉnh thoảng tuần sát một lần, không để ý tới Lê Xán nữa.
Ngày mùng một tháng hai năm Khánh Hi thứ mười ba, công chúa Cảnh Ưu khởi hành hòa thân đến Đại Lý.
Tinh mơ, công chúa đã vận lễ phục từ biệt điện Phụng Tiên rồi lại tới cung Càn Thanh thăm thái hậu, thái phi, đế, hậu.
Mặt mày công chúa lạnh lùng, mặc cho Dương thái phi khóc nức nở ôm nàng vào trong lòng cũng không rơi lấy một giọt nước mắt.
Hoàng đế biết nàng khổ sở, trong chốc lát không biết nên nói gì.
Thái hậu chỉ bảo: “Con đến Đại Lý, phải hòa thuận tôn kính, sớm đêm cần cù”.
Công chúa Cảnh Ưu cúi đầu nghe dạy, đáp: “Dạ” rồi lại lạy bốn lạy, đứng dậy lui tới cửa, đột nhiên hất tay của nội mệnh phụ ra: “Hoàng thượng! Xin đừng nuốt lời đã hứa với thần”.
Nàng ngẩng đầu, mắt ngấn lệ kêu lên.
Sao có thể không giết kẻ tự tiện xông vào cung tấm, lén gặp công chúa được? Hoàng đế nghĩ tới đây vẫn cực kỳ giận dữ.
Công chúa Cảnh Ưu thấy hoàng đế không lên tiếng thì nhào xuống dưới chân hắn ta, khóc không ra tiếng: “Nếu như hoàng thượng đổi ý, thần không xuất giá nữa”.
“Nói bậy”.
Hoàng đế nâng nàng đứng lên, mỉm cười hỏi: “Ai bảo trẫm đổi ý? Yên tâm đi đi”.
Hoàng hậu bỗng nhiên đứng lên nói: “Để thần thiếp đưa tiễn”.
Đoạn hành lễ với thái hậu và hoàng đế rồi đỡ tay Cảnh Ưu, chậm rãi bước ra.
Hoàng đế đứng ở trước cửa điện, trông thấy công chúa Cảnh Ưu ôm hoàng hậu khóc một lát mới lên liễn đi mất, trong lòng càng sầu não lại hơi nghi hoặc, thấy hoàng hậu quay lại bèn hỏi: “Nàng nói gì với nó thế?”.
Hoàng hậu cười đáp: “Vừa nãy công chúa bảo thần thiếp, nếu hoàng thượng nuốt lời thì thần thiếp nhất định phải báo cho người biết ngay.
Thần thiếp đã nhận lời rồi”.
“Nàng lại thêm loạn cho trẫm đấy!” Hoàng đế hết sức oán hận phẫn nộ với nàng, chỉ nói một câu đã giận đến mức hét to.
Hoàng hậu kinh ngạc bảo: “Mặc dù thần thiếp không biết hoàng thượng và công chúa đã hứa hẹn gì, nhưng nếu là hoàng thượng chính miệng hứa thì dù thần thiếp có nhận lời cả ngàn vạn điều, cũng không sao đúng không ạ? Chỉ là để công chúa yên tâm mà thôi”.
Ngay trước mặt nhiều nô tài như vậy, hoàng đế không tiện tranh cãi với hoàng hậu, mới nén giận nói: “Cũng phải.
Công chúa xuất giá cách xa ngàn dặm thì có thể làm gì?”.
Hoàng hậu không nhịn được, tỏ vẻ giận dỗi lên mặt, thản nhiên nói: “Cũng phải.
Ngài ấy quý vì là hoàng hậu nước khác, muốn thế nào thì thế đó, hoàng thượng cũng chẳng quản được ngài ấy”.
Nàng nhìn sắc mặt hoàng đế từ đỏ bừng biến thành tái nhợt, không khỏi mỉm cười khoái trá.
Nhưng cánh tay nàng bị siết đến phát đau, thân thể bỗng nhẹ bẫng, bị hoàng đế kéo thẳng qua mấy ngưỡng cửa, quăng xuống nền đất của buồng lò sưởi.
“Trẫm nên phế nàng, phế nàng từ lâu rồi!” Tiếng gầm khẽ đè nén của hoàng đế không ngừng run rẩy tựa như một sợi dây đàn căng sắp đứt: “Trẫm còn muốn giữ lại mặt mũi cho mọi người mà nàng cứ ép trẫm? Nàng tàn nhẫn hạ độc thủ với cốt nhục của trẫm, còn muốn chia rẽ khiến công chúa đối nghịch với trẫm.
Nói gì mà quý vì là hoàng hậu, muốn thế nào thì thế đó, cái ý xấu này nàng tự mình giữ đi, còn muốn Cảnh Ưu tạo phản theo nàng à?”.
“Nếu hoàng thượng đã cho là vậy, chi bằng dứt khoát phế thần thiếp đi”.
Khi cơn choáng váng qua đi, hoàng hậu nhanh chóng đứng dậy, khẽ thở hổn hển, nhìn chằm chằm vào ánh mắt của hoàng đế: “Chi bằng đuổi thần thiếp ra khỏi cung Khôn Ninh, cùng trị tội cả nhà thần thiếp”.
Nàng cười nói: “Hoàng thượng đang sợ cái gì, đang chờ cái gì chứ?”.
Hoàng đế chưa từng xung đột với ai như thế, ngây ra chốc lát mới trỏ vào mặt nàng, gằn giọng nói: “Nàng về cung Khôn Ninh của nàng đi! Nếu không nể mặt cha nàng thì lúc này trẫm đã bóp chết nàng rồi”.
“Hoàng thượng cho rằng lúc này thần thiếp vẫn còn màng đến sống chết nữa sao?” Hoàng hậu nói: “Vì sao thần thiếp phải gánh lấy thứ hư danh này, mỗi ngày hầu hạ trước mặt thái hậu, thái phi? Chẳng thà ở trong lãnh cung, đỡ phải chịu bao nhiêu tội? Chẳng thà để hoàng thượng bóp chết trong tay, đỡ phải chịu bao nhiêu cô quạng?”
“Nàng đang nói trẫm đúng không? Trẫm bạc đãi nàng chỗ nào? Ngang ngạnh quá thể!R ra ngoài!” Hoàng đế không thể nhịn được nữa, đưa tay tóm lấy cánh tay hoàng hậu, lại bị hoàng hậu cản lại.
“Thần thiếp tự đi ra ngoài”.
Hoàng hậu hết sức quật cường, lạnh lùng thốt lên.
Hoàng đế khiếp sợ hơn là phẫn nộ, trợn to hai mắt.
“Thế này đã làm hoàng thượng nhìn thẳng thần thiếp rồi ư?” Biểu cảm của hoàng hậu như thể không biết nên khóc hay cười: “Kể từ khi hoàng trưởng tử chết yểu, đây là lần đầu tiên hoàng thượng liếc mắt nhìn thiếp một cách chính thức đấy”.
Nàng khom người chào: “Thần thiếp cáo lui”.
“Chờ đã”.
Hoàng đế hỏi: “Có phải nàng cảm thấy hoàng trưởng tử chết yểu là lỗi của trẫm không?”.
“Chẳng lẽ là lỗi của thần thiếp?” Mắt hoàng hậu sáng quắc, hỏi ngược lại.
Chính là ánh mắt ấy! Hoàng đế bỗng nhiên cả kinh.
Đã né tránh nhiều năm như vậy, ánh mắt kia vẫn đâm đến khiến mồ hôi lạnh chảy ròng ròng, hổ thẹn và bực bội đan xen vào nhau.
Hắn ta miễn cưỡng nói: “Đó là số trời, chẳng trách ai được”.
Hoàng hậu ngửa đầu cười khẩy một tiếng: “Hoàng thượng coi như Hoà thục nghi cũng thuận theo số trời đi, chẳng thể trách bất cứ ai được”.
“Đừng nhắc tới nàng ấy!” Tiếng nói thẹn quá hóa giận của hoàng đế nặng nề, phẫn nộ như sấm đánh nơi xa, chộp lấy vạt áo hoàng hậu, đẩy mạnh xuống giường: “Nàng còn mặt mũi nào nhắc tới nàng ấy ở trước mặt trẫm?”.
Tay nắm lấy cái eo thon của hoàng hậu, ký ức xa lạ khiến hoàng đế nhớ ra hắn ta đã từng ái mộ và lưu luyến người phụ nữ trước mắt đến nhường nào.
Khác với sự hầu hạ làm dáng của đám phi tần, hoàng hậu điềm tĩnh và thông tuệ.
Khi nàng mặc triều phục xuất hiện trên chỗ ngồi chính giữa cung Khôn Ninh, hắn ta luôn mê mệt trong vầng sáng thánh khiết của nàng.
“Tại sao lại biến thành như vậy chứ?” Hắn ta khẽ lắc đầu, cắn răng nghiến lợi nói: “Trước đây nàng không như thế”.
Quái gở xảo trá, ngay cả khóe miệng cười chúm chím đẹp đẽ cũng biến thành nụ cười nhạt xảo trá hung bạo.
Chẳng lẽ đó thật sự là cùng một người ư? Hoàng đế vừa đau lòng vừa căm hận: “Trẫm chưa từng hận một ai tới vậy”.
Hắn ta cực chẳng đã nói.
“Thần thiếp cũng thế”.
Mặt hoàng hậu hiện lên màu đỏ bệnh tật, con mắt hung ác quắp lấy sự hổ thẹn tận đáy lòng hoàng đế không buông.
Thù hận như sắp xé rách cổ họng của nàng, nàng nói với chất giọng khản đặc: “Con trai còn chưa kịp uống một ngụm sữa của ta, còn chưa kịp ôm một cái đã để thái hậu và hoàng thượng ôm đi, rồi lại chết không minh bạch như vậy, ngay cả một lần cuối cùng cũng không được gặp…”.
“Câm miệng!” Sự khó chịu cuồn cuộn trong lòng hoàng đế, hắn ta không nhịn được quát lên.
Hoàng hậu im lặng một lát, mới nhỏ giọng nói: “Rốt cuộc hoàng trưởng tử chết như thế nào, cầu xin hoàng thượng nói cho thần thiếp biết”.
“Trẫm cũng không biết, trẫm không chăm sóc tốt cho nó”.
Mặt hoàng đế đỏ lên, nói câu này xong thì đột nhiên cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều.
Hoàng hậu hít một hơi sâu, thất vọng không lên tiếng.
Trong ánh mắt u oán, đau thương của nàng, dường như hoàng đế tìm được chút bóng dáng xưa kia.
Hắn ta đưa tay gạt đi nước mắt trên mặt nàng, cảm nhận được cơ thể ấm áp mềm mại, hơi thở của hắn ta chợt bắt đầu gấp gáp.
Sắc mặt hoàng hậu tái đi, chợt cong người giãy dụa.
Hoàng đế xoay tay hất cái bàn trên giường xuống đất, tóm lấy người nàng: “Trẫm nói như vậy, nàng đã vừa lòng chưa? Đã hả giận chưa? Chúng ta đã huề nhau rồi, từ nay về sau, trẫm không tội gì phải tránh nàng nữa.
Tránh nhiều năm như vậy vẫn không tránh thoát”.
“Tại sao phải tránh chứ?” Hoàng hậu cười khẩy: “Cho dù thần thiếp chết trong tay hoàng thượng thì cũng bằng lòng đấy…”.
Vậy thì chết đi! Hoàng đế không nhịn được nghĩ như vậy trong lòng.
Cho dù là sau bảy năm qua đi mới lại có được người phụ nữ này, cho dù lại phát hiện ra vẻ mỹ lệ lạ thường và tình cảm sâu nặng của nàng thì nỗi thù hận của hắn ta vẫn không hề vơi bớt mảy may.
Tựa như muốn nuốt chửng đối phương, đế hậu giương cung bạt kiếm khiêu khích lẫn nhau, ánh mắt hung ác lưu luyến chuyển động trên mặt đối phương, từ đầu đến cuối đều không hề rên rỉ trong lúc thở dốc nặng nề.
Cuối cùng hoàng đế mới bình tĩnh và tỉnh táo lại, phát hiện hoàng hậu đã cắn rách môi, đỏ thẫm như son.
Hắn ta cúi đầu xuống, mút lấy giọt máu diễm lệ.
“Hừ!” Hắn ta bị đau, phải nâng người lên, ôm cánh môi bị hoàng hậu cắn trúng, khoái trá cười gằn: “Lá gan không nhỏ”.
Hoàng hậu nhanh chóng che lại đôi chân dài trần trụi, khoác quần áo rồi lảo đảo đi tới bên cửa, run rẩy dùng trâm vàng búi lại mái tóc dài tán loạn lên rồi mới bình tĩnh nói: “Thần thiếp xin cáo lui”.
Nàng vẫn lẳng lặng cúi chào, sau đó xoay người bước ra khỏi cửa.
Hoàng đế phục hồi tinh thần lại từ cơn mệt nhọc trong chớp mắt, chỉ cảm thấy cơn buồn nôn co quắp ở dạ dày, đưa tay phất châu ngọc trên giường xuống đất rồi gọi: “Cát Tường, Như Ý”.
Cát Tường vui tươi hớn hở tiến vào, nói: “Vạn tuế gia, Như Ý vừa mới theo công chúa xuôi nam rồi”.
“Trẫm quên mất”.
Hoàng đế nói, mặc Cát Tường sửa sang xiêm áo cho mình: “Khương Phóng đã đến cửa khẩu Tiểu Hợp chưa?”.
“Vẫn chưa ạ”.
Cát Tường nói: “Đang dẫn các thị vệ phụng chỉ điều động chờ dập đầu tạ ơn ngoài cửa, sau đó mới cùng đi đấy ạ”.
Trong buồng lò sưởi còn thoang thoảng mùi hương nhạt chỉ có trên người hoàng hậu, hoàng đế không muốn nán lại thêm một khắc nào nữa, dùng khăn tay lau mặt và nói: