Ký Linh mơ một giấc mơ.
Trong mơ, nàng trở về Linh Sơn ở hồi nhỏ, theo Thanh Đạo Tử tu tập võ nghệ. Từng chiêu từng thức Thanh Đạo Tử dạy, từng nụ cười, từng cái nhíu mày đều giống y như năm xưa, trong mơ nàng thực nghĩ rằng bản thân vẫn là đứa bé gái bảy, tám tuổi.
Sau đó không biết tại sao, cảnh mơ bỗng trở nên lộn xộn, lúc thì nàng ngồi chơi cờ với Thanh Đạo Tử, lúc thì nàng và Thanh Đạo Tử thi vẽ, lúc lại là nàng thắp hương cho Thanh Đạo Tử đã về cõi tiên. Những cảnh ở chung với sư phụ bị ngắt thành những khúc nhỏ lộn xộn trút hết vào trong mơ.
Sau cùng, giữa những cảnh hồi ức trở đi trở lại, nàng nghe thấy mình hỏi bằng chất giọng con trẻ năm xưa: Sao sư phụ không xuống núi bắt yêu vậy?
Sau đó có giọng một người khàn khàn trả lời: Vi sư già rồi, bắt không nổi nữa nên giao lại cho con.
Ký Linh nhỏ lại hỏi: Trên đời này nhiều yêu như vậy, con biết bắt thế nào?
Thanh Đạo Tử đáp: Gặp, muốn bắt thì bắt, không muốn bắt thì thôi; không gặp thì không cần phải nghĩ.
Ký Linh nhỏ lẩm bẩm: Tùy ý quá.
Thanh Đạo Tử cười nhẹ: Không phải tùy ý, là tùy duyên, tùy cơ duyên.
Ký Linh nhỏ ngơ ngác: Sư phụ, cơ duyên là gì?
Thanh Đạo Tử cúi xuống bảo: Là thứ mà nó tới con mới biết được.
Sau đó, Ký Linh tỉnh giấc.
Mặt trời đã lên cao ba ngọn sào chiếu nắng lên chăn lên mặt nàng, chói không mở nổi mắt.
Lâu lắm rồi nàng không mơ thấy Thanh Đạo Tử, dù rằng chỉ là mơ nhưng vẫn làm vơi bớt nỗi nhớ sư phụ của nàng khiến lòng nàng ngập tràn ấm áp và bình yên.
“Ký Linh cô nương…” A hoàn khẽ gọi ngoài cửa.
Ký Linh díp mắt nhìn ra ngoài cửa sổ thấy không còn sớm sủa gì nữa, e là a hoàn thấy không thể chờ được tới lúc nàng tự dậy nên mới lại gọi.
Duỗi lưng một cái, Ký Linh xuống giường đi mở cửa cho a hoàn.
A hoàn bê chậu nước sạch đứng sững ra ngoài cửa vì không ngờ cửa được mở nhanh như vậy.
Ký Linh nhận lấy chậu nước, cười với đối phương: “Đa tạ.”
A hoàn hoàn hồn, đáp vội: “Cô nương chớ nói vậy.”
Ký Linh cẩn thận kê chậu nước lên giá gỗ định rửa mặt, thấy a hoàn vẫn đứng nguyên đó thì thắc mắc hỏi: “Sao vậy?”
A hoàn lúc này mới nhớ ra nhiệm vụ thứ hai của mình: “Nhị thiếu gia hỏi cô nương muốn dùng cơm ở đâu. Muốn qua sảnh phụ hay đưa về phòng.”
Theo lệ thường thì tầm này không phải giờ ăn, bữa sáng đã quá mà bữa trưa thì chưa tới. A hoàn hỏi vậy ắt là vì Đàm Vân Sơn lo nàng chưa ngủ dậy.
Ký Linh vẫn luôn biết Đàm Vân Sơn vừa tỉ mỉ lại vừa rảnh rỗi, chỉ là không ngờ sau chuyện tối qua, chàng vẫn còn tâm trạng lo lắng thứ chuyện nhỏ nhặt này.
Nên là nàng đã nói gì với Phùng Bất Cơ nào, người này sẽ chẳng để bản thân vướng bận bởi những phiền não mãi không dứt đâu, cùng lắm thì đêm nằm ngắm sao, sáng ra là ổn ngay.
Ký Linh bảo a hoàn đưa đồ ăn qua phòng. A hoàn đi, nàng rửa mặt, chỉnh trang, tới lúc nghe tiếng gõ cửa thì nàng đã thay xong quần áo, ngay cả đồ đạc cũng đã gói ghém chỉnh tề.
Một mặt thấy lạ vì lần này a hoàn gõ cửa chứ không gọi, một mặt nàng vẫn ra mở cửa, sau đó, Ký Linh trông thấy hai gương mặt cười rạng rỡ: Đàm nhị thiếu gia bê mâm thức ăn và bên cạnh còn mọc ra một vị Phùng Bất Cơ.
Hai khuôn mặt tươi rói làm Ký Linh giật mình bất giác bước lùi về nửa bước, nhíu mày nhìn Phùng Bất Cơ tỏ ý hỏi: Chuyện gì đây?
Phùng Bất Cơ hiểu ý nàng muốn hỏi, gật đầu, ra dấu lại bằng mắt: Giống y như Ký Linh nói, đệ ấy thật chẳng sầu não nổi mấy canh giờ.
Ký Linh cạn lời: Tôi không hỏi chuyện đó!
Phùng Bất Cơ chớp mắt đầy vô tội: Thế gì?
Ký Linh ra sức trừng mắt với huynh ta.
Đàm Vân Sơn thò đầu lại gần: Kỳ thực liếc mắt đưa tình thế này tôi cũng biết…
Một hồi đấu mắt kết thúc bằng thắng lợi tuyệt đối thuộc về Đàm nhị thiếu gia nhàn nhã bê mâm thức ăn vào cửa.
May là Đàm nhị thiếu gia không thích để mọi người phải sốt ruột tò mò, để mâm thức ăn xuống xong liền nhẹ nhàng nói: “Cô nương ăn cơm trước đã, ăn xong rồi mới nói chuyện chúng ta tu tiên.”
Tay Ký Linh cầm đũa khựng lại giữa chừng, ngơ ngác nhìn lên: “Chúng ta… tu tiên?”
“Đệ ấy đã bái biệt cha mẹ, quyết định cùng tu tiên với chúng ta!” Phùng Bất Cơ nhanh nhảu tiếp lời, rõ ràng là rất vui trước quyết định này.
“Khoan đã,” Ký Linh giơ tay ngăn vị cùng nghề nói tiếp, sắp xếp lại tư duy, tìm ra vấn đề trọng yếu, “chúng ta là gồm những ai?”
Phùng Bất Cơ cười khoe hàm răng trắng sáng: “Ký Linh, tôi, đệ ấy!”
“Tại sao tôi phải cùng tu tiên với huynh ấy?” Ký Linh gần như bật thốt ra câu này, nói xong lại thấy không ổn, sửa lại là, “Không, tại sao tôi phải cùng tu tiên với các huynh? À cũng không phải, không phải huynh không tu tiên hay sao? Sao lại muốn cùng tu tiên với huynh ấy?”
Phụ nữ mà đã hỏi như súng bắn liên thanh là Phùng Bất Cơ chịu, huynh ta thong thả tựa người vào ghế, giơ tay ra dấu với Đàm nhị thiếu gia ý bảo: Đệ tiếp đi.
Đàm Vân Sơn ấp ủ đã lâu, cuối cùng cũng đợi được tới lượt mình khẩu chiến.
Trước khi vào trận, để thể hiện cấp bậc lễ nghĩa, kiểu gì cũng phải mỉm cười một cái thật phong nhã.
Ký Linh phẩy tay: “Đừng bày vẽ, mau nói đi.”
Đàm Vân Sơn hắng hắng giọng, bắt đầu: “Trên “Trần Thủy tiên duyên đồ” có đề đôi câu thơ: Ngày ngũ yêu đền tội, Ấy là lúc lên tiên. Ý rằng ngũ yêu thượng cổ đều bị tiêu diệt là đường tu hành của tôi viên mãn, được đắc đạo lên tiên. Từ chuyện Ứng Xà có thể thấy bất kể yêu thú được ai thu phục, nốt ruồi của tôi đều sẽ biến mất, đều tính là tôi bước thêm một bước trên bước đường tu tiên…”
Dựa trên những gì đã xảy ra thì đích xác là vậy nhưng Đàm Vân Sơn nói trắng ra như thế, Ký Linh nghe lại thấy con đường tu tiên này thật vô cùng đáng khinh: “Vậy huynh mau cầm tiên duyên đồ đi bắt yêu đi.”
“Tôi nào có bản lĩnh bắt yêu.” Đàm nhị thiếu gia đối đáp nhanh nhẹn, thẳng thắn, thành khẩn, có thể nói là rồng phượng giữa đám người thường.
Ký Linh ngạc nhiên nhìn chàng, thực sự không nói lại được chữ nào.
“Cho nên chúng ta mới phải tu cùng nhau, cô nương tu hành, tôi tu tiên.” Đàm Vân Sơn tựa như người thầy dốc lòng dạy bảo đứa trẻ thiếu hiểu biết, “Cô nương thấy đó, trước đây cô nương bắt được nhiều yêu như vậy, Lục Trần Kim Lung đều không sáng, một con Ứng Xà liền sáng ngay một lỗ. Nếu cô nương đi theo Trần Thủy tiên duyên đồ thì không cần phải làm gì thêm chỉ riêng việc bắt ngũ yêu đã đủ để Lục Trần Kim Lung của cô nương sáng năm lỗ, lỡ đâu trên hành trình này còn gặp được một con yêu quái bất phàm nào nữa thì lại sáng thêm được một lỗ, thế há chẳng là thiên hạ thái bình!”
Sáng hết sáu lỗ có sức cám dỗ quá lớn với Ký Linh, không chỉ vì câu “thiên hạ thái bình” mà hơn hết là vì đó là tâm nguyện sư phụ dành trọn đời vẫn không hoàn thành được. Nếu nàng có thể làm được, ắt sư phụ sẽ rất vui.
Khoan, Ký Linh bỗng tỉnh táo lại, suýt nữa thì đã bị Đàm Vân Sơn cho vào tròng rồi: “Muốn bắt ngũ yêu, tôi cướp lấy Trần Thủy Tiên duyên đồ là xong, cần huynh làm gì?”
Đàm Vân Sơn thở phào hài lòng, câu “cuối cùng cũng đợi được hỏi tới câu này” như viết rõ trên mặt: “Bởi vì từ giờ trở đi, tôi chính là Trần Thủy tiên duyên đồ.”
Ký Linh nhíu mày không hiểu.
Đàm Vân Sơn nhìn nàng, cười dịu dàng: “Trần Thủy Tiên duyên đồ cháy rồi.”
Ký Linh giật mình, lớn tiếng kinh ngạc: “Huynh đốt tu tiên đồ rồi à?!”
Đàm Vân Sơn không ngờ trong lòng Ký Linh mình lại là người quả quyết như vậy, mặc dù thấy vui nhưng vẫn phải giải thích: “Nó tự bốc cháy, tới lúc tôi phát hiện ra thì đã quá muộn, hơn nữa cháy xong hoàn toàn biến mất, không để lại chút tro tàn nào, nếu không phải tận mắt nhìn thấy, tôi sẽ cho là nó thình lình biến mất vào hư không.”
Nếu là vật tiên, hoàn thành sứ mệnh xong không lưu lại nhân gian cũng là dễ hiểu nhưng chẳng phải Đàm Vân Sơn còn phải dựa vào nó để bắt yêu hay sao…
Ký Linh ngẫm nghĩ mới nhớ ra: “Nãy huynh nói huynh chính là Trần Thủy Tiên duyên đồ?”
Đàm Vân Sơn rót một chén trà đầy đẩy qua cho Ký Linh, thong thả ung dung đáp: “Tôi đã ghi tạc bức đồ trong lòng, mỗi gốc cây mỗi tòa nhà đều nhớ chính xác.”
Ký Linh không tin: “Có bao nhiêu là thôn trấn, ngọn núi, đường lớn đường nhỏ cơ mà!”
Đàm Vân Sơn chỉ vào đầu mình, đôi mắt ánh lên niềm đắc ý: “Yên tâm, đều ở đây rồi, nếu cô nương không tin, tôi có thể lập tức vẽ lại cho cô nương xem.”
Ký Linh lập tức gật đầu: “Vậy huynh vẽ đi.”
Đàm Vân Sơn đáp không chút do dự: “Không.”
Ký Linh: “…”
Đàm Vân Sơn cởi bỏ lớp áo văn nhã, hiếm khi mới vô lại một lần, kề sát gần nàng thủ thỉ: “Cùng đi Trần Thủy, muốn bao nhiêu tấm tiên duyên đồ, tôi đều vẽ cho cô nương.”
Ký Linh hoài nghi hơi nóng Đàm Vân Sơn nói phả ra có bùa mê vì đầu óc nàng hiện giờ hoàn toàn trống rỗng.
Phùng Bất Cơ chứng kiến toàn bộ thầm thở dài trong bụng, tuy Đàm nhị công tử lòng không có ý gió trăng nhưng một chút gió trăng như có như không này thực sự rất có lực sát thương.
Mặc dù không biết vì sao nhưng trực giác mách bảo Ký Linh nếu còn tiếp tục đôi co với Đàm Vân Sơn thì thua là cái chắc, nàng bèn quay qua chia rẽ “phe địch”: “Phùng Bất Cơ, huynh còn nhớ không, trước đây huynh ấy còn nói là việc tu tiên mông lung, hư vô, không đáng để nhớ mong, thấp thỏm.”
“Đương nhiên,” Phùng Bất Cơ gật đầu trước rồi đổi giọng, “nhưng xưa khác nay khác. Huống hồ đệ ấy đã nói với tôi là không phải cứ nhất nhất phải tu thành, chủ yếu là đi ra ngoài thăm thú một phen, xem thử đất trời rộng lớn, về phần có thành tiên hay không thì phải xem cơ duyên.”
Ký Linh giật mình.
Hai chữ “cơ duyên” gợi lại giấc mơ ban nãy.
Sư phụ nói cơ duyên là thứ mà nó tới thì con mới biết được.
Giờ nàng đã hơi hơi hiểu câu này.
Thấy Ký Linh mãi không nói gì, Phùng Bất Cơ bèn nói luôn hết lối nghĩ của mình ra: “Dù sao lúc trước người nói không tu tiên là đệ ấy, giờ người nóng lòng muốn thử cũng là đệ ấy, nói xuôi nói ngược đệ ấy đều nói được hết mà lại còn nghe có vẻ đều rất có lý, tôi chẳng còn cách nào.”
Ký Linh chịu phục: “Thế là huynh liền vui vẻ trở thành đồng đội của huynh ấy?”
Phùng Bất Cơ cười khà khà: “Tôi cũng rất hiếu kỳ bốn yêu thú còn lại trông như thế nào, dù sao tôi là người nhàn tản, đi đâu cũng như nhau.”
Ký Linh lại không nói lại nổi.
Giờ nàng cực muốn chạy ngay tới trước mặt sư phụ để lên án, cơ duyên nào