Cuối cùng cũng hoàn thành được chuyện đã nhận lời với Ký Linh khiến Đàm Vân Sơn cảm thấy chưa bao giờ vững tâm hơn thế. Cảm giác bất an cứ mãi quấy rầy chàng không yên ngay cả trong lúc mê man giờ tan biến hẳn. Giờ đây, chàng có thể đường hoàng đứng trước mặt nàng nói rằng ta đã đập giúp nàng rồi, nàng về nhà với ta đi.
Hít sâu rồi từ từ thở ra xong Đàm Vân Sơn mới ngẩng đầu lắc lắc vật mình cầm cho Thiên Đế đang không hiểu gì xem, giải thích ngắn gọn xen lẫn giễu cợt: “Chuông Tịnh Yêu, pháp khí sư phụ tốt của nàng để lại cho nàng bắt yêu.”
Thiên Đế nhìn chuông Tịnh Yêu rồi lại nhìn Trịnh Bác Lão. Thì ra là vậy.
Đàm Vân Sơn không nói thêm gì nữa, đang tính cất chuông Tịnh Yêu vào lại trong ngực thì bỗng Thiên Đế lại bảo: “Có thể cho ta xem nó không?”
Chàng không hiểu nhưng vẫn đưa pháp khí cho Thiên Đế.
Thiên Đế nhận chuông Tịnh Yêu, tung nhẹ lên không, chiếc chuông nhỏ nhắn được đẩy bằng một lực nhẹ chỉ lên cao chưa quá đỉnh đầu thì đã tự rơi xuống nhưng không xuống tới lòng bàn tay Thiên Đế mà dừng lại vừa khéo ở ngang tầm mắt.
Thiên Đế niệm thầm, chạm nhẹ vào chuông Tịnh Yêu.
Thoáng chốc, chuông Tịnh Yêu bắt đầu sáng lên, không phải thứ ánh sáng bạc khi sắp sửa đánh yêu quái mà là tầng tầng lớp lớp bảy sắc cầu vồng. Mới đầu chúng đan xen vào nhau, sau đó dần dần mỗi màu bắt đầu tách riêng, cuối cùng thành những khối rõ ràng.
“Bạc núi Thời, gỗ thơm đan mộc, lông đuôi huyền điểu, sừng lộc thực,…” Thiên Đế lần lượt đọc lên tên của các tinh khí sau khi được tách riêng, cuối cùng cười bất lực, “Quả nhiên đều là vật của Cửu Thiên.”
*núi Thời: tên một ngọn núi cổ trong truyền thuyết, trên núi không có cỏ cây. Đan mộc: một loài cây trong thần thoại mọc trên núi Vu, lá và thân màu đỏ, hoa màu vàng, quả màu đỏ, vị ngọt. Huyền điểu: cũng là một loài chim trong truyền thuyết Trung Quốc. Lộc Thực: một loài vật trong truyền thuyết, trông giống ngựa, đầu màu trắng, thân có vằn, đuôi màu đỏ, hí lên nghe như tiếng người hát.
Pháp khí được đúc thành từ nhiều nguyên liệu, mỗi loại có một tinh khí riêng nhưng trong quá trình luyện chế chúng sẽ giao hòa với nhau tạo nên tinh phách của pháp khí. Đàm Vân Sơn thật không ngờ còn có thể bóc tách ra tinh khí ban đầu ở pháp khí đã luyện thành.
“Cho nên Lục Trần Kim Lung phải tan biến,” Đàm Vân Sơn nhìn Trịnh Bác Lão, nói bằng giọng chắc chắn, “trong nguyên liệu chế tạo Kim Lung có thứ gì đó chỉ rõ “chỉ có thể là ông”.”
Trịnh Bác Lão vô tội ra mặt, hệt như một vị thần tiên bị oan: “Kim Lung đã tan biến rồi, giờ cậu nói gì chẳng được.”
Đàm Vân Sơn biết có cố cũng chỉ uổng công, chuông Tịnh Yêu còn được để lại là vì nguyên liệu tạo nên nó, bất kỳ tiên hữu nào của Cửu Thiên đều có thể tiếp cận được.
Có điều, chàng vốn cũng chẳng trông chờ Trịnh Bác Lão thừa nhận. Đã lên được một kế hoạch kín đáo như vậy rồi thì tất nhiên có đủ khả năng để giấu tiệt mọi kẽ hở, xóa sạch mọi chứng cớ có thể làm lộ tẩy. Đạo hạnh chàng còn ít ỏi, không đấu lại được đối phương.
Chàng không mong mỏi phải định bằng được tội cho kẻ ác, chàng chỉ muốn một chân tướng để nói với Ký Linh, để nàng biết nguyên nhân vì sao bản thân phải lặn lội đường đời dưới trần gian, bất kể là buồn hay vui.
Bây giờ, đã đến lúc làm rõ lớp sương mù bí ẩn cuối cùng che mờ “chân tướng”.
“Xúc phạm Đế Hậu, đại bất kính, dạy mãi không sửa, phải phạt nặng,” chàng bất ngờ lên tiếng, nói chữ nào chữ nấy hung dữ như một tên ác quan đang ép kẻ vô tội phải nhận tội, “ban hình phạt Vong Uyên, sám hối suốt đời.”
Trịnh Bác Lão im lặng, râu tóc che phần lớn khuôn mặt nhưng không che được cặp mắt chợt ánh lên vẻ hung ác nham hiểm.
Thiên Đế đang đăm chiêu xem chuông Tịnh Yêu nghe vậy bỗng ngẩn ra, quay đầu sang, thoáng ngạc nhiên, rõ ràng là rất bất ngờ trước “kết cục” của Thanh Trản.
Đại bất kính là tội nặng với tiên tì, lại còn là đã dạy mà không sửa, vào Vong Uyên là đúng luật Cửu Thiên; Đế Hậu coi sóc phồn đa các chuyện vặt vãnh của Cửu Thiên, quản lý dạy dỗ tiên tì là chuyện thuộc chức trách, nhưng… Thanh Trản ư?
Thật sự là càng nghĩ càng cảm thấy không giống với hình ảnh tiên tì dịu dàng trong ký ức, Thiên Đế bất giác đọc lại tội trạng: “Xúc phạm Đế Hậu, dạy mãi không sửa ư?”
“Tuyển Văn thượng tiên tra cứu “Tội Uyên Giám” giúp tôi, trong đó có ghi chép rõ ràng rành mạch.” Đàm Vân Sơn vẫn giữ nguyên giọng điệu trừng phạt vậy là đúng người đúng tội, còn cố ý nhấn mạnh bốn chữ cuối.
Người nói vô tâm, người nghe còn nghĩ xiên xẹo đi được nữa là người nói rõ ràng cố ý.
“Rõ ràng rành mạch?” Trịnh Bác Lão cười nhạo, giọng lạnh lùng, “Chẳng qua là dùng một tờ giấy gói đẹp đẽ bao bọc hành vi ác độc của bản thân mà thôi.”
Thiên Đế và Đàm Vân Sơn cùng nhìn ông, Thiên Đế chỉ nhìn, Đàm Vân Sơn vẫn tiếp tục cố gắng: “Đường đường là Đế Hậu chẳng nhẽ lại đi cố ý đổ oan cho một tiên tì hay sao? Canh Thần thượng tiên nói vậy không hợp lý.”
Trịnh Bác Lão lớn tiếng phản pháo: “Sao lại không? Không phải cậu đang yên đang lành cũng bị Lạc Mật đẩy xuống Tư Phàm Kiều đấy thôi? Kẻ có quyền còn lâu mới cao thượng như cậu tưởng.”
“Chuyện gì cũng có nguyên do của nó, Lạc Mật đẩy tôi là để tìm tim, Đế Hậu thì làm vậy để làm gì?”
“Để bản thân được thoải mái, để bớt phiền, để…” Ông ta bỗng khựng lại, cuối cùng cũng nhận ra mình mắc bẫy.
Kỳ thực phép khích tướng này chẳng có gì là cao minh, chỉ có điều Đàm Vân Sơn khích rất đúng chỗ, trúng ngay chỗ đau nhất của ông ta.
Trịnh Bác Lão đau đầu nhận xét: “Cậu đúng là không lúc nào không giăng bẫy người khác.”
Đàm Vân Sơn không nhận: “Xưa nay tôi không bẫy người tốt.”
“Có ngu mới tin,” Trịnh Bác Lão cười nhạt, “Thiếu Hạo chân thành như vậy, không phải cậu cũng bẫy cách đi dưới nước ở Cửu Thiên đấy thôi.”
“…” Đàm Vân Sơn không phản bác được.
Nếu là trước đây, cho dù chỉ là thắng thế đường miệng lưỡi thì cũng đủ để Trịnh Bác Lão đắc ý một hồi lâu. Nam Ngọc thường hay nói ông càng đi càng tụt lùi, càng già tính tình càng trẻ con.
Nhưng lúc này đây, ông bỗng thấy mệt mỏi, mệt đến nỗi không còn sức để đắc ý, không muốn trong lòng đã hiểu rõ rồi mà vẫn còn cố mạnh miệng.
Ông chuyển mắt từ nhìn Đàm Vân Sơn sang nhìn Thiên Đế im lặng nãy giờ, Trịnh Bác Lão nói lại hoàn chỉnh câu mà ông nói dở: “Thanh Trản bị oan. Sở dĩ Đế Hậu muốn ném nàng vào Vong Uyên chẳng qua là vì để bản thân được thoải mái, để bớt phiền lòng, để không còn phải nghe thấy ông khen nàng hay nữa.”
“Chỉ vì thế?” Thiên Đế vốn chẳng hề nhớ mình đã từng khen Thanh Trản nhưng điều làm ông khó lòng chấp nhận là lý do này quá kịch.
“Chỉ?” Trịnh Bác Lão cười nhạo, “Chỉ đó trong mắt Đế Hậu là chuyện to bằng trời.”
Thiên Đế nghiêm giọng: “Ông nói Đế Hậu đổ oan cho Thanh Trản, có chứng cớ gì không?”
Trịnh Bác Lão nhíu mày: “Ông nói tôi bày mưu làm cạn nước Vong Uyên, có chứng cớ gì không?”
Thiên Đế liếc mắt một cái, chuông Tịnh Yêu treo giữa không trung lập tức trở về tay Đàm Vân Sơn, tinh khí ban nãy Thiên Đế làm phép mà ra cũng trở về trong chuông, chỉ có một chấm sáng rất nhỏ màu hồng đào nhạt là vẫn nguyên chỗ cũ, còn nhỏ hơn cả hạt thóc, không để ý kỹ thì khó mà nhận ra.
Sở dĩ Đàm Vân Sơn nhìn thấy là vì Thiên Đế đưa chấm sáng đấy cho Trịnh Bác Lão xem.
Mới đầu Trịnh Bác Lão cũng không hiểu nhưng sau khi nhìn một lúc, nhận ra đó là tinh khí của thứ gì thì ông mới lắc đầu cười rầu rĩ, trông càng thêm mỏi mệt.
“Đường tuyết chín cánh, chỉ có một cây từ thượng cổ còn lại đến giờ, ban trồng trong Canh Thần Cung của ông,” Thiên Đế trả tinh khí lại cho chuông Tịnh Yêu, buồn bã than thở, “luyện pháp khí vào mùa hoa rụng thì cần phải theo dõi sát sao không rời một tấc.”
*đường: cây đường, có hai thứ trắng và đỏ, thứ đỏ dắn mà dẻo, đời xưa dùng đóng can cung, thứ trắng (tức “đường lê” 棠梨) có quả ăn được (loại có quả, quả màu giống mắc cọp nhưng không phải loài mắc cọp). “Đường” cũng có thể dùng để chỉ hải đường Trung Quốc (xem hình). (Theo Từ