Lúc sắp đến giờ Mùi, có người gõ cửa phòng trọ của Cố Cửu và Thiệu Dật.
Thiệu Dật: “Vào đi.”
Đỗ Hưng Đức đẩy cửa tiến vào, đi theo ông ta ngoài Đỗ Văn Tuyên ra còn có ba người khác, một nam một nữ và một đứa bé trai tầm bảy tám tuổi.
Cố Cửu nhìn thoáng qua đôi tay đang bọc băng vải kín mít của đứa nhỏ, cậu đoán hẳn nó chính là đứa bé nghịch chết con rắn nhỏ, sau đó trên tay bị mọc đầy sởi giống như da rắn.
Quả nhiên, vừa mới đặt chân vào cửa đôi vợ chồng đó liền bắt đầu ra sức nài nỉ Cố Cửu và Thiệu Dật nghĩ cách cầu Liễu tiên bỏ qua cho con mình.
Tuy rằng mấy nốt sởi giống da rắn đó không đau, cũng không còn ngứa nữa nhưng trông vô cùng đáng sợ.
Mấy ngày nay con trai bọn họ ngày nào cũng khóc lóc dữ dội, nếu còn tiếp tục như vậy nữa thì nó sẽ thực sự hỏng bét.
Thiệu Dật nhìn đứa bé sa sút tinh thần đến nỗi gầy rộc, hai má hóp lại thấy rõ, cậu hỏi: “Ngươi đã biết lỗi chưa?”
Đứa bé òa lên khóc to: “Con biết sai rồi, con biết lỗi rồi mà, sau này con không dám chơi rắn nữa!”
“Vậy còn những loài vật khác thì sao?”
Bé trai nước mắt nước mũi tèm lem nức nở đáp: “Không dám, không dám ạ.”
Tuy rằng cái sai lớn nhất của đứa bé này là coi thường mạng sống của sinh linh, nhưng nó mới có tí tuổi đầu nên đâu có hiểu được những đạo lý sâu sắc này, hai người Cố Cửu cũng không giảng giải dài dòng làm gì.
Cố Cửu chỉ nói với cha mẹ đứa bé: “Đợi lát nữa ba người cũng đi theo luôn, chúng tôi bảo làm gì thì cứ làm theo là được.
Nhớ kĩ là phải thành tâm thành ý, chỉ cần có một chút ý nghĩ bất kính thôi thì sẽ dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn cả bây giờ.
Đến lúc đó chúng tôi cũng không giúp được đâu.”
Đôi vợ chồng vội vàng gật đầu, hứa hẹn: “Chúng tôi hiểu rồi, hiểu rồi.
Chỉ cần hai vị đạo trưởng chịu giúp thì làm gì chúng tôi cũng chịu.”
Sau đó, cả đoàn rời khỏi khách điếm, đi đến nhà họ Đỗ.
Cố Cửu lập đàn tế, Thiệu Dật cầm kiếm bước tới trước đàn, vừa múa kiếm vừa tụng: “Khói thơm trọng hậu ứng càn khôn, cháy đượm hương nồng thấu Thiên môn……”
Khói từ nhang cắm trên đàn bắt đầu bay thẳng lên không rồi từ từ tản ra.
Chú thỉnh thần được niệm xong, trong sân ai nấy đều nín thở hồi hộp chờ đợi, không dám tạo ra một tiếng động nào dù là nhỏ nhất, ngay cả nhóc con dù rất sợ nhưng cũng chỉ nhắm tịt mắt lại chứ không dám kêu tiếng nào.
Đỗ Hưng Đức đợi lâu mà chưa thấy có chuyện gì xảy ra thì hơi sốt ruột, nhưng không dám mở miệng hỏi.
Ông ta nhịn không được thử nhìn quanh quất bốn phía, ai ngờ vừa mới động đậy thì bỗng một trận gió mạnh nổi lên, ngay cửa lớn đối diện với pháp đàn chợt xuất hiện một đôi mắt rắn đen kịt to tổ bố, to gần bằng nắm tay người lớn.
Đỗ Hưng Đức đối mặt với đôi đồng tử đen nhánh dựng thẳng của con rắn thì cả người đổ mồ hôi lạnh, vội vã cúi đầu rụt cổ không dám nhìn nữa.
Cố Cửu nhìn con rắn đen to bự đột ngột xuất hiện này cũng giật mình lùi về sau mấy bước, không phải vì sợ pháp lực của nó mà là sợ cái thân dài dài mềm mềm của nó.
Con rắn đen bò lên trước một chút, ngay lúc nó nhìn thấy đứa bé trai đang nép trong một góc sân thì dựng đứng cả nửa thân mình lên mà không hề có dấu hiệu báo trước, cái miệng lớn như cái chậu há ra, thè lưỡi phát ra tiếng xì xì xì đe dọa.
Nhóc con kia thấy vậy thì hồn phi phách tán, rên lên một tiếng, vừa định ngoác miệng ra gào thì đã bị một bàn tay đè đầu lại.
“Quỳ xuống, dập đầu.” Cố Cứu giữ chặt bả vai đứa nhỏ rồi kêu cha mẹ của nó cũng làm theo như vậy.
Cha mẹ đứa bé quýnh quáng quỳ xuống, đè đầu con mình dập đầu liên tục mấy cái mạnh đến nỗi nghe được cả tiếng bang bang.
Người cha vừa khấu đầu vừa thành khẩn cáo lỗi với rắn đen lớn, nói rằng mình không dạy dỗ con đến nơi đến chốn, để nó hại chết con cháu của Liễu tiên.
Cả nhà hắn thật tâm biết sai muốn chuộc lỗi, cầu xin Liễu tiên tha cho con trai họ một mạng.
Cố Cửu nói với Liễu tiên: “Ngươi có yêu cầu gì thì cứ nói, miễn là ngươi không hại đến tính mạng người ta thì chúng ta đều chấp nhận.”
Vừa dứt lời, Cố Cửu liền đưa tay đốt một lá bùa.
Có một bản sách được lưu truyền tên là “Quỷ thoại liên thiên”, trong đó có nói rằng đôi khi quỷ hồn tâm trí bị nhiễu loạn nên thường nói những lời lộn xộn không rõ nghĩa, nghe như một thứ ngôn ngữ nào khác chứ không phải tiếng người.
Vì vậy, người trong huyền môn đã tạo ra một loại bùa có thể giúp người làm phép thông hiểu những lời nói đó, khi cần nói chuyện với yêu quái hay sơn mị cũng có loại bùa tương tự có thể dùng.
Những người khác hồi hộp theo dõi, lá bùa bốc cháy, Liễu tiên đắc ý uốn éo cả người, còn xoay tới xoay lui vài vòng giễu võ giương oai.
Thiệu Dật lạnh mặt, hừ một tiếng: “Ngươi nhất định muốn đòi mạng người? Xem ra ngươi thật sự không biết tự lượng sức mình.” Thiệu Dật đưa tay vung kiếm gỗ đào lên rồi lấy ra mấy thẻ bài gỗ đào gọi sấm sét.
Đôi vợ chồng thấy vậy thì tưởng là đàm phán thất bại rồi, suýt nữa kìm không được bật khóc.
Cố Cửu vội chạy lại ngăn Thiệu Dật, quay sang nói lời phải trái với Liễu tiên:
“Nếu đánh nhau thật thì ngươi thử nghĩ xem mình có thể hứng nổi vài đợt sấm sét hay không? Nếu đánh chết luôn thì miễn bàn rồi, cái đáng sợ là bị đánh cho sống dở chết dở.
Khoan nói tới sư huynh ta, ngay cả ta đây trên người đầy âm khí cũng đủ để cắn nuốt ngươi rồi.
Ngươi tu hành cũng không dễ dàng gì, suy nghĩ kĩ lại đi, ngươi lại còn có con đàn cháu đống đầy ra đó.
Bây giờ hai bên đều lui một bước, ngươi trở về địa bàn của mình vui vầy với con cháu chẳng phải tốt hơn nhiều sao?”
Sư huynh đệ hai người cùng diễn một tuồng, một kẻ cho ăn đấm, một kẻ cho ăn xôi.
Liễu tiên im lặng nửa ngày không nhúc nhích, dường như đang suy xét lời của Cố Cửu.
Tiếp đó, nó lượn tới lượn lui tại chỗ vài vòng, Cố Cửu nhanh tay châm thêm một lá bùa.
Lần này, sắc mặt của Cố Cửu và Thiệu Dật thả lỏng hơn nhiều.
Cố Cửu tiếp tục đốt vài lá bùa nữa, nghe xong những yêu cầu của Liễu tiên thì tiễn nó đi.
Chờ cái đuôi của rắn đen bự biến mất ở cửa sau, Đỗ Hưng Đức mới hoàn hồn, phát hiện ra lưng áo của mình đã ướt đẫm từ bao giờ.
Ông ta vội hỏi: “Hai vị đạo trưởng, Liễu tiên nói thế nào?”
Cố Cửu xoa đầu đứa bé trai, nói với cha mẹ của nó trước: “Con rắn mà con của hai người hại chết là cháu trai của Liễu tiên nên nó mới giận dữ đến vậy.
Nhưng dù sao thì mạng của nhóc này đã được cứu rồi.
Còn đôi tay thì hai người dẫn nó về, lập bài vị cho con rắn nhỏ đó trong từ đường.
Mỗi tháng vào ngày bảy, mười bảy, hai mươi bảy thì cho nhóc quỳ dập đầu một trăm cái.
Đến ngày giỗ của rắn nhỏ thì phải chép kinh, tụng kinh siêu độ cho nó.
Phải làm liên tục trong hai năm, không được chậm trễ, bằng không thì da rắn trên tay con trai hai vị sẽ không khỏi.”
Mẹ đứa bé mặt mũi trắng bệch, ấp úng hỏi: “Lỡ như…lỡ như hai năm sau vảy rắn vẫn không biến mất thì làm sao?”
Thiệu Dật nghiêm mặt, lạnh lùng nói: “Ước hẹn này có Thiên Đạo giám sát, nếu nó vi phạm thì sẽ bị trừng phạt, chỉ cần các vị thành kính thì không có chuyện lỡ như.”
Nghe vậy hai vợ chồng mới yên tâm, tuy rằng hai năm không phải là một khoảng thời gian ngắn, nhưng so với mạng sống và đôi tay lành lặn thì không đáng là bao.
Cố Cửu lúc này mới quay sang Đỗ Hưng Đức, dặn dò: “Còn ông, ông lập mộ cho con rắn nhỏ kia ngay chỗ nó chết, mỗi năm vào ngày bảy, mười bảy, hai mươi bảy và ngày giỗ của nó cũng dâng hương quỳ lạy nó một lần, lập bàn cúng tế cho nó ở tám hướng trong nhà, đồ cúng thì để cho con cháu của Liễu tiên hưởng dụng.
Chỉ cần ông không nổi ý xấu thì con cháu nó sẽ không quấy rầy nhà ông nữa.
Đỗ Hưng Đức gật đầu lia lịa, cam kết: “Tôi nhất định sẽ làm theo.”
Lúc đầu Đỗ Hưng Đức mong bọn họ sẽ mời Liễu tiên đi nơi khác, nhưng ông ta sực nhớ lại chuyện của Hôi tiên lần trước.
Cháu của Liễu tiên gặp nạn là do khách đến nhà làm, nhưng mấy chục đứa con cháu của Hôi tiên là do chính ông ta tiêu diệt.
Nếu bây giờ mà