Vi Tiểu Bảo cả mừng lên tiếng chửi đổng:
- Con mẹ nó! Thằng cha Thi Lang làm gì mà kỳ vậy? Hắn ngồi chiến
thuyền của Đài Loan tới đây truyền chỉ là nghĩa làm sao?
Tô Thuyên đáp:
- Chắc Thi tướng quân gặp bọn Thủy quân của Đài Loan. Hai bên khởi cuộc
thủy chiến rồi y thắng trận và tịch thu chiến thuyền.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Đúng thế rồi! Thuyên tỷ tỷ liệu sự như thần.
Công chúa ra chiều không phục lên tiếng:
- Ta đoán chắc là Thi Lang đã đầu hàng Đài Loan. Trịnh Khắc Sảng phái hắn
đến giả truyền thánh chỉ.
Vi Tiểu Bảo nghe nàng nói vậy trong lòng hoan hỷ nên không thóa mạ nữa,
thò tay béo đít nàng một cái rồi lật đật chạy ra bãi biển tiếp chỉ.
Quả nhiên Thi Lang ngồi trong mủng nhỏ tiến vào bờ. Hắn lên bãi cát lớn
tiếng tuyên đọc thánh chỉ.
Nguyên Vua Khang Hy phái Thi Lang tấn công Đài Loan, Bành Hồ. Thủy quân
Đài Loan bị đại bại. Thi Lang thừa thế xông lên đảo.
Diên Bình quận vương nhà Đại Minh là Trịnh Khắc sảng chưa đánh đã đầu
hàng. Từ đây đảo Đài Loan thuộc vào bản đồ nhà Đại Thanh.
Vua Khang Hy luận công ban thưởng. Nhà Vua nghĩ tới Thi Lang ngày trước
ngồi rỗi ở Bắc Kinh không được trọng dụng. Nhờ Vi Tiểu Bảo tiến cử, hắn mới lập
nên công lớn. Ngài liền đặc cách thăng cho Vi Tiểu Bảo lên Nhị đẳng Thông Cật
hầu, ban cho một cặp Nhãn hoa linh, gia hàm Thái tử Thái bảo, người con tập ấm
cũng được thăng Nhất đẳng Khinh xa đô úy.
Vi Tiểu Bảo tạ ơn rồi, trong lòng thờ thẫn như người mất của. Gã không ngờ
đảo Đài Loan lại bị Thi Lang dẹp xong ngay.
Sự thực giữa Vi Tiểu Bảo và Trịnh Khắc Sảng trước nay tính tình không hợp,
lại thù nghịch nhau nữa. Sư phụ của gã là Trần Cận Nam bị Trịnh Khắc Sảng sát hại,
nên gã giận hắn thấu xương, nhưng đảo Đài Loan dẹp xong là thiên hạ của nhà
Đại Minh không còn một tấc đất. Gã nghĩ tới điểm này cảm thấy bâng khuâng
trong dạ.
Từ thuở nhỏ Vi Tiểu Bảo chưa từng đọc sách, gã chẳng quan tâm gì đến
chuyện phân chia kẻ Mãn người Hán, cùng mối cừu hận về quốc tộc, nhưng gã ở
trong Thiên Địa Hội lâu ngày, thường được nghe anh em nhắc tới nhiều lần và dĩ
nhiên gã nhận thấy người Mãn Châu chiếm mất giang sơn của người Hán là việc
đáng buồn. Vì vậy gã nghe nói Thi Lang bắt Trịnh Khắc Sảng đưa về Bắc Kinh,
chẳng lấy chuyện đó làm mừng.
Gã lại nghĩ tới sư phụ suốt đời tận tâm kiệt lực chỉ mong khôi phục thiên hạ.
Dù chẳng thành công trong công cuộc lớn lao này thì cũng cần bảo vệ Đài Loan
một cách vĩnh viễn, gọi là còn một mảnh đất ở hải ngoại của nhà Đại Minh. Ngờ
đâu sư phụ gã bị hại chưa lâu, đảo Đài Loan lại mất nốt. Dù Trịnh Khắc Sảng có là
kẻ phản nghịch, nhưng sư phụ gã ở dưới âm cung mà biết việc này, tất lão nhân gia
phải khóc hết nước mắt.
Bữa trước sư phụ gã bị hại cũng vì nguyên nhân ông đã cùng Thi Lang chiến
đấu đến sức cùng lực kiệt, nên mới bị Trịnh Khắc Sảng ám toán, đâm vào sau lưng
một cách dễ dàng.
Vi Tiểu Bảo thấy bộ mặt Thi Lang nhơn nhơn đắc ý, trong lòng rất căm tức, gã
hỏi:
- Thi đại nhân lập được đại công này, chắc là thăng quan lớn lắm rồi?
Thi Lang mỉm cười đáp:
- Nhờ ơn điển của Hoàng thượng, ty chức được gia phong Tam đẳng Tĩnh Hải
hầu.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Cung hỷ! Cung hỷ!Gã nghĩ bụng:
- Ta trước đã là Nhất đẳng Thông Cật bá, nếu thăng một cấp là lên Tam đẳng
Thông Cật hầu, nhưng tiểu Hoàng đế lại thăng lên hai cấp là có ý để ta ở ngôi
cao hơn tên tiểu tử Thi Lang này. Nếu cả hai người cùng Tam đẳng hầu chẳng hóa
ra cá mè một lứa?
Thi Lang thỉnh an rồi cung kính nói:
- Hoàng thượng triệu ty chức vào bệ kiến. Ngài vỗ về bằng lời lẽ ôn nhu, lại
khích lệ một hồi sau cùng ngài hỏi: "Thi Lang! Chuyến này ngươi ra quân lập nên
công trạng, có biết ai đã bồi tài cho ngươi không? Trước ngươi ở Bắc Kinh, chẳng
ma nào nhìn đến, ai đã tiến cứ ngươi?".
Ty chức liền tâu:
- Tâu Hoàng thượng! Đó là Vi tước gia đã hết lòng đề bạt bảo tấu lên Thánh
thượng, mới được tắm gội Hoàng ân.
Hoàng thượng lại phán:
- Ngươi cũng là kẻ không quên nguồn gốc. Có thế mới phải. Vậy ngươi lập
tức ra Thông Cật đảo để tuyên chỉ cho Vi Tiểu Bảo. Trẫm gia quan tấn tước cho
gã để khen ngợi gã biết được người hay mà tiến cử đặng lập công danh cho triều
đình.
Thi Lang nói tiếp:
- Ty chức nghe phán liền lập tức đăng trình.
Vi Tiểu Bảo thở dài bụng bảo dạ:
- Ta đề bạt người nào cũng lập nên công trạng hết. Còn chính ta thì lại bị
giam cầm trên hòn đảo hoang này, không được dời xa nửa bước. Tiểu Hoàng đế
không ngớt gia phong quan tước cho ta, mà thực ra ta có được phong đến Thông
Cật vương cũng chẳng lấy chi làm hoan hỉ.
Ngoài miệng gã nói:
- Thi đại nhân! Đại nhân ngồi chiến thuyền của Đài Loan tới đây khiến ta giật
bắn người lên, tưởng là thủy quân của Đài Loan kéo tới tấn công. Ai ngờ lại là đại
nhân đến đây diễu võ dương oai.Thi Lang vội tạ tội rồi giải thích:
- Không dám! Không dám! Ty chức phụng tuân thánh chỉ, trong lòng nóng nẩy
muốn được gặp đại nhân. Ty chức cảm thấy chiến thuyền của Đài Loan chế tạo rất
hay, và vượt biển lại mau lẹ, nên ngồi thuyền Đài Loan để đi cho chóng đến nơi.
Vi Tiểu Bảo nói:
- Té ra chiến thuyền của Đài Loan vượt biển mau lẹ. Đầu thuyền còn huy
hiệu mặt trăng mặt trời vẽ bằng sơn. Ban đầu ta phỏng đoán Thi đại nhân đã xưng
vương ở Đài Loan nên trong lòng không khỏi rất đỗi lo âu.
Thi Lang giật mình kinh hãi vội đáp:
- Ty chức quả là hồ đồ! Lời chỉ điểm của đại nhân phải lắm! Trong lúc hành
động vội vàng, ty chức quên cả cạo bỏ huy hiệu trên chiến thuyền của Đài Loan.
Sự thực không phải hắn sơ xuất trong vụ này. Hắn dẹp xong Đài Loan rồi,
trong lòng đắc ý vô cùng, Hắn ngồi trên chiến thuyền đã cướp được của Đài Loan
rồi đi ngược lên Thiên Tân đoạn lại quay xuống phía Nam ra đảo Thông Cật cố ý
để nguyên huy hiệu ở đầu thuyền cho những người ngó thấy phải chỉ trỏ bàn tán
về lai lịch chuyến thuyền này, khiến chiến công của hắn thêm phần rực rỡ.
Không ngờ Vi Tiểu Bảo lại nói gã đem lòng ngờ vực Thi Lang muốn tự lập làm
Đài Loan vương. Đây là một điều vi phạm rất trọng đại. Thi Lang bất giác sau lưng
toát mồ hôi lạnh ngắt. Hắn nghĩ thầm:
- Tiểu Hoàng đế cực kỳ sủng ái gã thiếu niên này! Mình phải huyết chiến cự
nhọc mới bình xong Đài Loan, còn gã ngồi nhàn hạ trên hải đảo mà công lao lại
lớn hơn mình. Gã được phong Nhị đẳng hầu, mà mình mới là Tam đẳng hầu. Nếu gã
triều kiến Hoàng thượng đưa hơi một vài câu là đại họa đổ xuống đầu mình.
Trong lòng hoảng sợ, Thi Lang mất hết vẻ ngạo nghễ, không dám ngông
nghênh như lúc vừa tới nơi nữa. Hắn vội truyền lệnh cho bọn thuộc quan nhất nhất
phải lên đảo bái kiến Nhị đẳng hầu Vi Tước gia.
Trong bọn thuộc quan này có hai người Vi Tiểu Bảo đã quen biết, vì chúng
vẫn tùy tùng Trần Cận Nam và gã đã gặp họ ở Liễu Châu. Một người là Lâm Hưng
Châu, một người là Hồng Triều phó thủ của Lâm Hưng Châu.Vi Tiểu Bảo vừa thấy chúng, trong lòng sửng sốt, tự hỏi:
- Bọn này là tướng lãnh ở Đài Loan, sao nay lại làm thủ hạ của Thi Lang.
Lâm Hưng Châu và Hồng Triều lên bờ nhìn thấy Vi Tiểu Bảo cũng xiết đỗi
kinh nghi, bụng bảo dạ:
- Gã là tiểu đồ đệ của Trần quân sư, sao lại làm quan lớn với triều đình Mãn
Thanh? Cả Thi đề đốc cũng đối với gã bằng một thái độ cực kỳ kính cẩn?
Vi Tiểu Bảo nghe hai người tự báo chức hàm thì một tên là Thủy sư đô ty,
một tên là Thủy sư thủ bị.
Thi Lang liền giới thiệu:
- Lâm đô ty và Hồng thủ bị nguyên là những nhân vật trong quân tướng Đài
Loan, nay theo Trịnh Khắc Sảng tước gia và Lưu Quốc Hiên đại nhân quy thuận
triều đình. Hai vị này am hiểu mọi việc ngoài hải đảo, nên ty chức đem họ đi theo
để họ trông nom công việc về thuyền bè của Đài Loan.
Vi Tiểu Bảo "ủa" một tiếng rồi nói:
- Té ra là thế!
Lâm Hưng Châu và Hồng Triều đều cúi gầm mặt xuống, ra chiều rất hổ thẹn.
Đảo Đài Loan từ ngày Trịnh Thành Công lập thành vương phủ đã mở cửa
thông thương với các nước Nhật Bản, Lữ Tống, Tiêm La, Việt Nam, trở nên rất thịnh
vượng, giầu có.
Thi Lang bình Đài Loan lấy được rất nhiều đồ trân bảo, dị vật của nước ngoài
đưa về dâng triều đình. Vua Khang Hy sai gã đem một ít ban cho Vi Tiểu Bảo.
Ngoài ra Thi Lang còn có phần lễ vật riêng của hắn đưa kính tặng Vi Tước gia.
Tối hôm ấy, Vi Tiểu Bảo đặt tiệc khoản đãi. Gã mời Thi Lang ngồi vào thủ
tịch, ngoài ra còn bốn võ quan cao cấp. Gã lại mời cả Lâm Hưng Châu và Hồng
Triều cùng đến bồi tiệc để hai vị này thuật chuyện về tình hình Đài Loan cho gã
nghe.
Rượu đã ba tuần, Vi Tiểu Bảo hỏi:- Lâm đô ty! Diên Bình quận vương ở Đài Loan là Trịnh Kinh vương gia sao lại
biển đổi tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng vào? Nghe nói hắn là con thứ hai của Trịnh
vương gia thì không đến lượt hắn làm Vương gia mới phải chứ?
Lâm Hưng Châu đáp:
- Dạ! Xin phúc trình Tước gia rõ: Trịnh vương gia đã qua đời vào ngày 28
tháng giêng năm nay. Ngài di mệnh cho đại công tử Trịnh Khắc Tang lên kế vị. Đại
công tử là người anh minh, cương nghị. Hết thảy quân dân ở Đài Loan đều đem
lòng kính phục. Nhưng Thái phu nhân Đổng quốc thái không ưa Đại công tử, liền
phái Phùng Tích Phạm hành thích giết y, lập nhị công tử là Trịnh Khắc Sảng lên
thay.
Hắn dừng lại một chút rồi tiếp:
- Trần phu nhân, vợ Đại công tử, vô cùng uất ức, vào ra mắt Đông quốc thái
chất vấn Đại công tử phạm tội gì mà phải thác oan? Nhưng Đông quốc thái nổi
giận đùng đùng sai ngươi đánh đuổi phu nhân ra. Trần phu nhân ôm lấy thi thể Đại
công tử khóc lóc thê thảm một hồi rồi cũng treo cổ tự ải. Vụ này khiến cho nhân
dân trên đảo Đài Loan từ trên xuống dưới đều ôm mối bất bình.
Vi Tiểu Bảo đập bàn quát mắng:
- Con mẹ nó! Tên tiểu tử Trịnh Khắc Sảng đã ngu tối hồ đồ, lại lòng dạ tiểu
nhân thì làm Vương gia con chó cũng không xong, cai trị nhân dân Đài Loan thế
nào được?
Lâm Hưng Châu đáp:
- Nhị công tử lên kế vị rồi, phong Phùng Tích Phạm làm Trung Thành Bá. Bao
nhiều chính sự ở Đài Loan đều vào tay lão. Nhưng lão xử sự bất công. Việc gì
cũng có tư tâm. Ai lớn mật đưa ra mấy lời công đạo liền bị lão giết chết. Vì vậy mà
văn võ bách quan trong lòng căm hận nhưng miệng không dám nói ra. Ai cũng thì
thầm bảo nhau: Quốc tích gia phải gian lao cực nhọc, tốn bao nhiêu tâm lực mới
gây dựng được sự nghiệp như ngày nay. E rằng cơ đồ này sẽ bị tan vỡ vì bàn tay
của ba người là Đổng quốc thái, Nhị công tử và Phùng Tích Phạm...
Hắn dừng lại một chú rồi kể tiếp:- Trong vòng nửa năm, số người trốn đi ngoại quốc và trở về lục địa rất
nhiều, Đổng quốc thái trong lòng nóng nẩy, nhưng chẳng có biện pháp nào cứu
vãn. Đại công tử và Trần phu nhân thác oan lại thường thường hiển linh hồn báo
oán. Đổng quốc thái bị quỷ hồn về nhát, sợ quá mà chết vào khoảng tháng tư.
Vi Tiểu Bảo reo lên:
- Hay quá! Hay quá! Đổng quốc thái xuống âm cung, chắc Quốc tính gia cũng
không chịu buông tha mụ.
Lâm Hưng Châu nói tiếp:
- Đúng thế đó. Vụ Đổng quốc thái bị oan hồn đòi mạng sợ quá phải bỏ
mạng đồn đại ra ngoài, toàn thể đảo Đài Loan từ bắc chí nam, ai cũng hả dạ. Nhân
dân đốt pháo trong ba ngày liền, ngoài miệng nói là để trừ ma đuổi quỷ mà thực
ra là ăn mừng cái chết của mụ bất nhân.
Vi Tiểu Bảo nổi tràng cười ha hả nói:
- Thú thiệt! Thú thiệt!
Thi Lang xen vào:
- Việc ma quỷ hiện hồn chưa chắc đã là chuyện thật. Có điều Đổng quốc
thái đã hạ sát cháu đích tôn, lại bức tử cháu dâu, tất trong lòng khắc khoải không
yên. Huống chi bà lại tuổi già, có tật giật mình, thần hồn nát thần tính, suốt ngày
thâu đêm lúc nào cũng nghĩ đến oan hồn hiện lên báo oán, mà tưởng tưởng ra như
vậy.
Vi Tiểu Bảo vẻ mặt nghiêm nghị ngắt lời:
- ác quỷ là chuyện có thật. Nhất là những người bị chết oan sau khi chết
thành quỷ rồi, nhất định hiện lên đòi mạng...
Gã nhìn thẳng vào mặt Thi Lang nói tiếp:
- Thi đại nhân! Chuyến này đại nhân đi bình trị Đài Loan giết rất nhiều người.
Theo nhận xét của huynh đệ thì trong những chiến thuyền của Đài Loan kia chẳng
thiếu gì ác quỷ ẩn hiện, đại nhân nên cẩn thận là hơn.
Thi Lang hơi biến sắc cười đáp:- Chúng ta là võ tướng ra trận chiến đấu, chẳng tài nào tránh khỏi chuyện
giết người. Nếu những tướng sĩ bị chết trận biến thành quỷ rồi hiện lên đòi mạng
thì những kẻ làm tướng chẳng một ai được chết yên lành.
Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói:
-