Sự tích hai vị yếu nhân, một là thành chủ Bố Chính Thành, hai là công chúa Lý triều “ màn trời chiếu đất’ đã lộ ra.
Mặc dù sau đó đám thiên tử binh cùng vị Công chúa kia bị “mời” về Chính Hòa huyện và đóng giữ nơi đó.
Nhưng hai phe nhân mã đều thở phảo nhẹ nhõm, ít nhất và chạm là không có căn lắm, và trong sự kiện này người ta có thể thấy lốm đốm, Lý Từ Huy công chúa rất khó khuất phục nhưng ít ra vị thành chủ Bố Chính khá tốt trấn áp.
Nếu đem so sánh thì mạnh mẽ hơn vị Lưu Kiên tại Quảng Nguyên nhiều.
Nhưng nói đi cũng nói lại, Ngô Khảo Ký là “ tác chiến sân nhà” còn vị Lưu Kiên là đánh nhau “sân khách” nên thực tế là rất khó so sánh.
Xong tình huống hai bên hòa hoãn làm cho cả dự bị thiên tử quân cùng quân Bố Chính nhẹ nhõm hơn nhiều, ít nhất không có binh đao gặp nhau là tốt rồi.
Tất nhiên trong lòng thân quân của Ngô Khảo Ký chẳng ai ngại khi làm thịt đám thỏ non thiên tử quân, nhưng làm thịt xong rồi sẽ có vô vàn rắc rối.
Quân sĩ đương nhiên thỏa mãn với kết quả trên, nhưng có một người đứng ngồi không yên.
Lê Văn Toản, không biết tên chết tiệt nào đã lộ ra tin tức, kẻ bầy mưu hiến kế “đày” công chúa Từ Huy đến Bố Chính Huyện là người này.
Hôm nay sáng sớm Từ Huy công chúa tiếp kiến quan viên Bố Chính đã rất quan tâm tiếp đãi đặc biệt vị Thành An Lê Văn Toảng khiến cho tên này về đến nhà vẫn đứng ngồi không yên.
“ Lão gia lo lắng gì, nghe đâu vợ chồng hai người này không hợp , còn đánh nhau cả buổi ở quân doanh, mỗi người lại ở một thành trì.
Lão gia thì là bề tôi của thành chủ, sợ gì cô ta gây khó dễ.”
Vợ của Lê Văn Toản thấy trượng phu quá lo lắng thì thêm lời.
“ Ngươi ngu phụ biết thứ gì, ngày này có thể là gay gắt ở riêng, nhưng tương lai đâu? Ngươi không biết vị công chúa kia mĩ mạo bao nhiêu, còn Thành chủ thì háo sắc thành tánh, sau này nếu lỡ như… nếu lỡ như….
Ôi biết vậy ta không hiến kế…” Lê Văn Toản than vãn mà ôm đầu ray ray.
“ Chẳng phải ngươi vì nóng lòng về với con hồ ly tinh kia mà gây họa, họa này ngươi tự làm tự chịu” Lê Văn Toản thê tử cũng không phải vừa, nàng hừ mạnh xỉa xói rồi bỏ đi.
“ Ngươi ngươi… cái ngu phụ này..” Lê Văn Toản run rẩy chỉ bóng lưng thê tử mà nói… hắn có phần khá hối hận rồi.
Lúc này vị thành chủ đang làm gì, hắn là đang tiếp vương tử Medang và vương tử Lavo, chuyện này đã vì Từ Huy chuyện nháo lên mà chậm chễ vài ngày rồi.
Cho nên lúc có thời gian Ngô Khảo Ký phải giải quyết vội.
Xưởng Luyện Thép lại đi vào làm việc, vũ khí lại liên tiếp ra lò hắn không thể không đẩy bớt ra ngoài một chút kiếm tiền.
“ Ngô Khảo Ký đại nhân, chúng tôi đã nhanh chóng hỏi tra hỏi các nguồn thông tin từ Lavo, những thứ này ở quốc gia chúng tôi có thể khai thác số lượng lớn.”
Chiên Bàn Phú Thái bày một chút mẫu vật lên bàn, thứ đầu tiên chính là Hàn thủy thạch thực tế thứ này là theo tên thuốc Bắc của người Hán mà đặt, Ngô Khảo Ký biết nó là thạch cao nên có thu thập một chút để làm mẫu vật đem hỏi khắp nơi, nếu nơi nào có hắn sẽ chấp nhận trao đổi buôn bán cùng.
Thứ mẫu vật thứ hai mà Chiên Bàn Phú Thái đưa lên là Phế ngọc, thực tế đây chính là quặng nghèo Apatit.
Người thời này nhìn thấy khoáng vật phosphat thường nhầm với Lục Ngọc Bảo.
Bề ngoài nếu Apatit quặng giàu cũng có cấu tạo và màu sắc khá tương tự các loại đá quý.
Từ “apatite” được bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “ăn gian” hay “dối trá”.
Cái tên không mấy thiện cảm này được đặt cho Apatite bởi vì sự tương đối giống của chúng với một số loại đá khác.
Do vậy nó là công cụ cho những kẻ hám lợi xưa kia sử dụng để lừa lọc những người mua đá.
Tất nhiên ở Phương đông chúng được gọi là phế ngọc và chả có mấy giá trị, hay nói đúng hơn là chẳng có giá trị gì.
— QUẢNG CÁO —
Ngô Khảo Ký gật đầu hài lòng, tuy hắn có được thạch cao và đá apatit từ người Tống nhưng nếu có được nguồn cung cấp thứ hai, thứ ba thì hắn vẫn luôn hoan nghênh nhiệt liệt.
Daksamavamca vương tử của Medang cũng không thua kém, Java thực tế nhiều khoáng chất hơn Lavo rất nhiều, nơi này không thiếu mỏ vàng, mỏ kim cương cũng như đá quý.
“ Ngô Khảo Ký huynh đệ, tôi cũng mang đến những mẫu vật mà chúng tôi có thể khai thác số lượng lớn, kèm theo đó tôi xin giải thích để ngài rõ.
Meda của chúng tôi có thuyền lớn, luôn có thể trở một số lượng rất lớn khoáng vật cho ngài.” Daksamavamca vừa nói vừa liếc mắt nhìn Chiên Bàn Phú Thái đầy thách thức.
Kỹ thuật đón tàu “biển” của người Mã Lai lúc này là cường đại nhất trong khu vực, nói về “ thuyền biển” thì người Trung Quốc không có sức cạnh tranh cùng người Mã Lai vào thời điểm hiện tại.
Ngô Khảo Ký vốn dĩ là không biết điều này, trong đầu hắn vẫn luôn có suy nghĩ trong các nước khu vực, người Trung Quốc luôn có thế mạnh trong việc chế tạo những thứ “quá khổ” kể cả quá khứ, hiện tại, và có thể cả tương lai cũng vậy.
Nhưng Ngô Khảo Ký kiến thức có chút nhầm lẫn, hắn vì xem phim trung hoặc đọc truyện Trung quốc nhiều nên bị nhầm lẫn giữa thực tế và những thứ khoa chương ngưởi Hoa nói về lịc sử của họ.
Ở đây có sự đánh tráo khái niệm giữa thuyền lớn và thuyền đi biển.
Người Hoa đến thời Đường mới bắt đầu cho nghiên cứu đóng thuyền đi biển.
Trong khi đó từ rất lâu trước từ thời Tam Quốc Đông Hán thì Nước Phù Nam đã lang thang khắp biển Đông.
Vạn Chấn thời Tam Quốc có viết: “Người ở vùng biển Tây Nam gọi thuyền là bạc, loại lớn dài hơn 20 trượng, độ cao trên mặt nước 2-3 trượng, nhìn xa như tòa lầu, chở sáu, bảy trăm người, hàng hóa cả vạn hộc” Nói chung từ thời đó người quanh vùng này đã chơi bời thuyền 40m, tải trọng tính chung người và hàng hóa khoảng trên dưới 400 tấn.
Cho tới khi Phù Nam tan rã thì phần phía đông nam của họ tách ra, một phần đó chính là Tam Phật Tề lúc này kế thừa truyền thống hàng hải, tàu bè đi biển chất lượng cực cao mà thời này người Trung Hoa không thể so bì.
Người Việt bị Đường triều đô hộ trong thời gian đó cho nên ý tưởng cùng triết lý thuyền bè có sự ảnh hưởng của người Hoa.
Do đó phát triển nhiều hơn loại thuyền đáy bằng hoạt động trên sông.
Nếu so sánh về hàng hải thì người Việt trong khoảng thời gian đô hộ đã có một bước trượt dài so với người Mã Lai.
Còn về thuyền lớn của người Hoa đa phần là lâu thuyền, loại thuyền vuông vức được ghép bởi nhiều “ hộp phía đáy” có tác dụng như một tòa pháo đài thành lũy trên mặt nước, thiện tác chiến nơi Sông lớn Như Hoàng Hà, Trường Giang.
Nhưng loại thuyền này vốn dĩ rất khó di động tốc độ siêu chậm và không thể đi biển.
Do ông kẹ Ngô Khảo Ký kiến thức tào lao nên bỏ gần tìm xa mà muốn mua bán công tượng của người Hoa lúc này.
Nhưng thực tế thì công tượng đóng tàu hàng hải của mấy nước Tam Phật Tệ mới đang là những kẻ đứng đầu.
Nhưng di sản của Phù Nam không dừng lại ở đó, Chiêm Thành, Lova, Lục Chân Lạp, Thủy Chân Lạp đều ít nhiều kế thừa được di sản hằng hải đó.
Và Chiêm Thành lại có quan hệ “mật thiết” cùng Đại Việt qua những lần gươm đao chào hỏi.
Không ít công tượng của Chiêm Thành bị bắt về Đại Việt từ thời Vua Lê Đại Hành, từ đó hình thành ở Đại Việt một dòng tư duy hàng hải cũng như quân sự biển khá đặc sắc vừa là di sản của Phù Nam vừa là đặc điểm riêng biệt của Đại Việt.
Từ thời Vua Lê Đại Hành thì Đại Cồ Việt lúc đó, hay Đại Việt lúc này đã hình thành lực lượng thủy quân cực mạnh ở khu vực và không sợ hãi bất kỳ đối thủ nào.
Tất nhiên về công nghệ đóng thuyền siêu trọng tải thì họ vẫn chưa đâu vào đâu.
Nhưng chiến hạm cỡ trung và cỡ nhỏ thì người Việt đã có những sáng tạo đặc sắc của mình để có những dòng thuyền chiến phù hợp và hiệu quả.
Nói đến đây thì cả Lova và Medang đều là di sản hàng hải từ Phù Nam, nhưng Medang phát triển hơn về phương diện này.
Lova thì trú trọng hơn về thuyền nhỏ nội địa cùng với bộ binh.
Mỗi người có hướng phát triển riêng.
Nhưng nói về trọng tải thuyền thì Medang có quyền khinh thường Lavo.
Chiên Bàn Phú Thái lúc này gương mặt thật thâm trầm, hắn cảm thấy mình khá yếu thế.
Vì những sản vật của Daksamavamca đưa ra quá là nhiều.
Trong mười mẫu vật mà Ngô Khảo Ký công bằng đưa cho hai người thì Daksamavamca mang đến bốn mẫu