Lại nói về máy nghiền đá bột dạng đứng đây vừa là kiệt tác thiết kế của Ngô Khảo Ký lại vừa là kiệt tác công nghệ gồm tất cả những gì tinh túy nhất mà Bố Chính có lúc này, và có lẽ về rất lâu sau đó chắc cũng khó có thể phát triển hơn.
Nói về máy này thì rất đơn giản nhưng để có thể xây dựng lên là một quá trình hết sức khó khăn và mệt mỏi.
Đầu tiên máy này dạng trụ đứng đường kính chỉ là 3m cao tầm 5m.
Với công nghệ cán thép tấm ngày càng hoàn thện của Bố Chính thì việc tạo nên một vở thép kim loại không cần quá độ dày rất dễ dàng, thật ra vỏ máy chỉ có chức năng cản bụi nên Ngô Khảo Ký lúc đầu còn định chế tạo bằng gỗ cho đỡ chuyện.
Phần trái tim của máy chính là ba chiếc bánh nghiền đặt đứng trên ba góc của một mặt nghiền trụ tròn.
Khi ba bánh nghiền này quay tròn cũng chính là khiến cho mặt nghiền nằm cũng xoay theo trục của nó.
Vì ba bánh xe chỉ có bề dày là 70 cm cho nên ở trung tâm của mặt nghiền nằm là trống rỗng và hơi nhô lên.
Đá răm sẽ được đổ từ phía trên vào vùng trung tâm của mặt nghiền, lực ly tâm cùng góc độ hơi nghiên sẽ khiến cho đá răm từ từ trượt về phía ba bánh nghiên dang xoay.
Từ đó đá răm sẽ bị trọng lực cũng như chuyển động của các bánh xe nghiền này cán nát.
Và cũng theo lực ly tâm chúng sẽ được đẩy ra ngoài khỏi bề mặt của mặt nghiền có đường kính 3 m trên.
Phía dưới của chúng là phễu để hứng cả đá răm vẫn chưa thành bột lẫn bột đá có chất lượng đủ để nung clinker.
Phễu này sẽ tụ tập vật liệu đá, bột đá vào băng truyền và một lần nữa được đưa lên cao để thả xuống trung tâm của mặt nghiền để lặp lại quá trình nghiền đang còn dang dở.
Nhưng sự biến hóa của Ngô Khảo Ký nằm ở chỗ này.
Nếu là một máy nghiền đứng của thế giới hiện đại cần một hệ thống cực kỳ cầu kì phức tạp để tách bột đá và đá dăm thì Ngô Khảo Ký đã nghĩ ra cách đơn giản và khá hiệu quả.
Khi đá dăm cùng bột đát lẫn lộn từ băng truyền đổ xuống thì nó không thực tiếp rơi và trung tâm của mặt nghiền.
Đầu tiên hỗn hợp này sẽ đi qua một phễu lớn.
phễu này có đáy không phải ống hình trụ mà là một khe dài nhỏ.
Điều này khiến cho hỗn hợp trên biến hành một dàn mỏng đá cùng bột đá rơi suống.
Nhưng kế bên “ thác” bột đám đá dăm này chính là hệ thống cánh quạt, một thổi một hút, dĩ nhiên những bột đá nhẹ, đủ yêu cầu sẽ bị thổi về phía đối diện và vị cánh quạt hút bên này đưa vào đường ống dẫn đi tới khu nguyên liệu thành phẩm.
Còn đá dăm lớn dĩ nhiên rơi vào đoạn phễu thứ 2 dể tiếp tục vào máy nghiền.
Tất nhiên đá dăm mới bổ xung cũng đi vào máy nghiền từ tầng phễu thứ hai này.
Kể từ đó quá trình nghiền liên tục không gián đoạn và không cần chờ đợi từng mẻ nghiền.
Hiệu suất tăng đến chóng mặt.
Đơn giản nguyên lý.
Nhưng để bố trí động lực cho từng khâu này rất phức tạp và khó khăn.
Một cỗ “động cơ” khá khổng lồ do 8 con trâu xoay trục được lắp ráp.
Đây có lẽ là “động cơ” lớn nhất của Bố Chính trong lúc này.
Công xuất của chiếc máy nghiền đá đứng này lên tới cả trăm tấn bột đá mỗi ngày nếu như liên tục thay thế trâu kéo khi chúng mệt mỏi.
— QUẢNG CÁO —
Có thể nói đây chính là tinh hoa chết tạo tay nghề của cả một tập thể các thợ “cơ khí “ của Bố Chính.
Nhưng kể cả như vậy cỗ máy này vẫn chưa thể đáp ứng việc sản suất công nghiệp xi măng của nơi này.
Nói đương cử Ngô Khảo Ký sơ tính toán.
Móng của ngoại thành Bố Chính dài 7km rộng 5m sâu 2m.
tính lung tung cũng lên tới 21 ngàn tấn xi măng.
Nghe công suất mỗi ngày trăm tấn bột đá nghĩ là ghê gớm nhưng thực tế nó chẳng đủ để làm một thứ gì.
Tất nhiên nếu sản xuất xi măng nhỏ lẻ xây dăm ba cái nhà vệ sinh, thì chừng ấy sản lượng một ngày đã là rất cừ rồi.
Khó khăn thứ hai của Ngô Khảo Ký trong việc chế tạo Xi măng là lò nung.
Lò nung xi măng không phải là cái bếp lò, quăng bột đá vôi lẫn lộn đất sét sau đó đốt lửa là xong..
Thật không hiểu mấy người xuyên không nghĩ gì khi có thể xây lò xi măng như bếp lò hay lò luyện gang.
Lò xi măng là một lò trụ nằm ngang, khí nóng sẽ được thổi vào lò và lò phải quay để bột đá vôi hỗn hợp đất xét nhận được nhiệt lượng đều nhất ở từng mm khối.
Sau đó tạo thành clinker.
Chế tạo lò đối với Ngô Khảo Ký là một thách thức, vì lò này vừa phải chịu lửa vừa phải chuyển động xoay vòng.
Còn hệ thống cấp nhiệt có thể coi là khó có thể coi là không.
Khó là tận dụng triệt để nhiệt lượng của nguyên liệu còn nếu không thì cấu tạo bễ thổi cũng như lò rèn mà thôi nhưng sẽ thất thoát nhiệt và tốn nguyên liệu.
Vật liệt chịu nhiệt mà Ngô Khảo Ký và người cổ đại dùng lúc này là cao lanh, đất sét, nếu ở trạng thái tĩnh như lò cao thì khá tốt.
Nhưng nếu để chuyển động như lò nung xi măng thì rất dễ đổ vỡ và hỏng hóc.
Ngô Khảo Ký không có cách nào khác, hắn không thể chế tạo lò quá lớn chỉ là một lò nung tầm 5 tấn xi măng một lần.
Bên ngoài bọc thép bên trong là cao lanh, đất xét bồi cực dày để chịu