Thì ra, người canh phòng hóa thân tên là “Lý cóc”, thường ngày lão gác đêm trong nhà hỏa táng, nhưng đây chỉ là công việc làm thêm, thực ra lão là “ông trùm” của cả tứ cửu thành (1) này, tất cả các việc lặt vặt mà các quan bên trên không quản, ví như: thó tiền, cắt tóc, đánh trống con, đồng nát… thì đều do lão cai quản. Thời xưa, những kẻ như vậy được gọi là “trưởng môn cái bang”, những kẻ này được ăn hai mang – cả công lẫn tư. Nghe nói năm xưa Lý cóc từng cứu mạng một viên quan cấp cao, mà người ta thường nói “quan hệ chính” là bát cơm, thêm vào đó, năng lực hoạt động xã hội của lão cũng khá mạnh, các mối quan hệ cứ thế đan xen keo kết với nhau, có điều, Lý cóc rất ít khi lộ mặt ra ngoài xử lý mọi việc, nên chẳng mấy ai gặp được lão.
(1) Tứ cửu thành: Ám chỉ Bắc Kinh, trong đó “tứ” là chỉ bốn phía tường thành vây quanh, gồm: đông, tây, nam, bắc; còn “cửu” là chỉ chín cửa thành, gồm: cửa Chính Dương, cửa Tuyên Vũ, cửa Phụ Thành, cửa Tây Trực, cửa Đức Thắng, cửa An Định, cửa Đông Trục, cửa Triều Dương và cửa Sùng Ván.
Lão Lưu Hoại Thủy xui hội Tư Mã Khôi đến bái kiến “ông trùm”, chỉ cần Lý cóc gật đầu một cái thì muốn tìm nơi nào làm ăn đều chẳng thành vấn đề.
Trước đây, Tư Mã Khôi từng nghe danh Lý cóc, chẳng ngờ đến giờ lão vẫn còn sống, thế là anh liền dẫn Hải ngọng và Cao Tư Dương đến bái kiến. Đừng thấy trong xã hội đặt ra bao nhiêu quy định mà cho là quá ngặt nghèo, thực ra người xưa đã có câu: “Đi đường công không được sai bằng cái kiến, đi đường tư sai bằng con ngựa vẫn cứ thông”, nếu anh không có cửa, không có quan hệ thì cứ thế mà thực hiện theo đúng những quy định cứng nhắc kia, không được phép sai một ly một lai, nhưng nếu tìm đúng cửa, thì chẳng chuyện gì là không hanh thông.
Bốn phía khu hỏa táng đều có tường rào bao quanh, bên trong có hai tòa nhà, một tòa ở phía trước, một tòa ở phía sau, tòa nhà phía trước có hai tầng, tòa nhà phía sau có ba tầng, bảo vệ ngồi gác ở tầng một tòa nhà phía trước. Tư Mã Khôi gọi cửa, vừa nhìn đã thấy một lão già người thấp lùn một mẩu nhưng khá đô con, đầu lão nhẵn bóng, miệng rộng ngoác tận mang tai, phưỡn cái bụng tròn vo như trống cái, mũi củ tỏi, mí mắt chảy xệ, miệng chẳng khác gì miệng ếch, không cần hỏi cũng biết đó là ai.
Do đã làm thủ tục chào hỏi từ trước, nên gã Lý cóc cũng biết ý định của ba người mới đến. Lão dẫn ba người vào phòng, dọc hành lang đặt mấy cỗ quan tài đựng xác chết, trong phòng tĩnh lặng đến lạ kỳ, ở đó chỉ kê một cái giường và hai chiếc ghế dài, trên bàn có bát gan xào và một túi thịt dê khá lớn, còn cả nửa bình rượu trắng.
Lý cóc cười hì hì, hỏi: ‘Thế nào ba vị? Làm một tí chứ hả?”
Tư Mã Khôi và Hải ngọng chạy lông nhông suốt nửa ngày trời, bụng đang rỗng tuếch, nghe lão mời cũng thấy lạ: “Ái chà! Lão già này cũng hiểu phép tắc đấy chứ…”, thế là hai người chẳng khách sáo gì, ngồi ngay xuống ghế, bốc miếng thịt nhét vào miệng, chỉ riêng Cao Tư Dương sau khi bước chân vào tòa nhà, cô thấy toàn thân không thoải mái, càng chẳng có tâm trạng nào mà ăn uống, nhưng đến thì đã đến rồi, không thể quay ngoắt đi luôn được, cực chẳng đã cũng phải ngồi xuống theo hội Tư Mã Khôi.
Lý cóc chỉ mải uống rượu, nhắm mắt dưỡng thần, chẳng nói năng gì nữa, trông nét mặt rất ư lạnh lùng.
Tư Mã Khôi đành phải khơi mào trước, anh cất tiếng: “Từ lâu đã nghe đại danh về ông trùm khét tiếng, rằng tiẽn sinh là bậc cao nhân, bản lĩnh cao cường, trọng nghĩa khinh tài, giao tiếp rộng rãi, tấm lòng quảng đại, chỗ nào trên quả đất cũng là địa bàn của tiên sinh, đúng là một người dẫn cả ngàn người theo sau đấy ạ…”
Lý cóc nghe đến đây thì đột nhiên há ngoác miệng cười khan mấy tiếng, rồi bảo: “Cái gì mà chùm với không chùm, chẳng qua là việc trời trời làm, việc người người làm mà thôi, chúng ta đừng phí lời sáo rỗng với nhau nữa, bạn bè bốn bể đến tìm tôi, nếu có tài nghệ, thì cứ thử luận gia môn xem thế nào!”
Tư Mã Khôi vừa nghe đã hiểu ý của đối phương, đại khái lão ta muốn bảo: “Cậu đừng nịnh nọt tôi làm gì, đã nói đến mặt đáy biển giang hồ, thì cứ luận xuất thân gia môn trước đã, xem rốt cuộc cậu có tài nghệ gì kiếm được bát cơm đây?”
Ý tứ mấy lời này không sâu sa lắm, nên Hải ngọng loáng thoáng hiểu, nói đến tài nghệ thì anh cũng có vải tài nghệ đáng mang ra khoe khoang, nên đang định ba hoa một phen cho đối phương mở rộng tầm mắt.
Tư Mã Khôi biết không thể làm vậy. Anh vốn là người xuất thân từ giới lục lâm cũ, giỏi tuyệt kỹ Bọ cạp đảo đầu leo tường, đồng thời là chân truyền Kim điển, cũng được đọc cổ tịch biệt bảo, không những vậy lại có kinh nghiệm chiến đấu trong quân đội, trên đời này có chuyện gì anh còn chưa biết cơ chứ? Trộm nghĩ dẫu bản lĩnh của Lý cóc có mạnh hơn nữa, cũng chẳng đáng kể nếu so với anh, nhưng “kẻ mạnh còn có người mạnh hơn”, nếu định lấy bản lĩnh đè người thì hỏi rằng cuối cùng ai sẽ đắc tội với ai? Cứ vậy thì dưới vòm trời này, đi tới đâu cùng chỉ thấy toàn dịch thủ, huống hồ bây giờ mình còn có việc phải nhờ vả người ta, bởi vậy lúc này
không được phép ba hoa thể hiện, nghĩ vậy, anh chỉ nói qua quýt cho xong phần báo danh, sau đó đề cập thẳng vào vấn đề chính là định nhờ Lý cóc tìm cửa để ba người hội anh có thể thay đổi lý lịch, hòng kiếm miếng cơm manh áo.
Lý cóc gật đầu bảo: “Cậu đã nói rõ như thế thì chắc cũng hiểu luật hết luật lệ rồi phỏng? “
Tư Mã Khôi đã có chuẩn bị từ trước, nên đáp luôn: “Đương nhiên rồi! Chúng tôi nào dám tay không đến đây gõ cửa làm phiền”. Nói xong, anh liếc mắt ra hiệu cho Hải ngọng.
Hải ngọng và Tư Mã Khôi thường ngày vẫn kẻ tung người hứng như vậy, nên rất hiểu ý nhau. Hải ngọng vội móc trong túi ra một hộp giấy, cẩn thận bày lên mặt bàn rồi nói: “Chẳng giấu gì tiên sinh, anh em chúng tôi chỗ nào cũng tốt, dù có điều sinh ra đã bại gia, nên cuộc sống qua ngày rất vất vả, từ trước tới giờ sống ngày nào biết ngày đó, ăn bữa nào biết bữa đó, kiếm được một đồng thì tiêu hai đồng, nên tay nải cứ nhẹ tênh tênh, thật xấu hổ lắm thay! Hôm nay, chúng tôi đến đây định nhờ tiên sinh giúp đỡ mà trong tay lại chẳng có gì đáng giá. Trộm nghĩ tiên sinh đây chắc đã quen tiêu xài tiền to, nên dẫu chúng tôi có mang bạc năm vàng mười ra bày trước mặt, thì chưa chắc tiên sinh đã thèm ngó ngàng đến. Chúng tôi bàn đi tính lại, không biết mang gì đến cho tiên sinh mới thỏa đáng, cổ nhân nói thế nào nhỉ? ‘Nghèo không rời quẻ bói, giàu không rời nồi thuốc’, chúng tôi thấy nhân vật có tiếng tăm giống như tiên sinh đây, trong tay chẳng bao giờ thiếu tiền, chắc chắn không phải mệnh bói toán, còn cơ thể xương cốt tiên sinh nom cũng chẳng có vẻ gì cần đến thuốc thang, vấn đề là phàm con người thì đều phải ăn ngũ cốc mới sống được, nên khó tránh khỏi những lúc nhức đầu sổ mũi. Ông tổ nhà chúng tôi lại đúng là thái y làm việc trong cung, chuyên khám bệnh cho hoàng thượng, trước lúc cưỡi hạc quy tiên, ngài để lại cho con cháu một hộp ‘Cửu chuyến hoàn hồn đơn’, có câu ‘ngoại khoa ngán ghẻ, nội khoa ngán hen’, nghĩa là bệnh ngoại khoa khó chữa nhất chính là các loại viêm da, ghẻ lở hắc lào, còn bệnh nội khoa khó chữa nhất chính là hen xuyễn, khó thở. Đó mới là hai loại bệnh nan y, tức là ‘lưỡng chuyển’, vẫn còn những ‘thất chuyển’ nữa mới thành ‘cửu chuyển’ đó ạ! Thuốc của ông tổ nhà chúng tôi có thể chữa được ‘ngũ lao thất thương’ (2) tức là năm loại lao, bảy loại tổn thương cho tất cả các đối tượng già trẻ gái trai, chữa khỏi chứng viêm họng khó thở vào thời kỳ trước xuân sau thu, ngay cả người đã chết uống vào cũng có thể lập tức đánh ngay phát rắm.
Tiên sinh bảo không tin trẽn đời tồn tại loại thuốc tiên này sao? Đừng nói tiên sinh không tin, nếu đổi ngược lại là tôi, thì tôi cũng không tin, nhưng thực sự phải nói với tiên sinh, cổ nhân bảo rằng ‘thảo dược đánh bại danh y, thuốc dân gian chữa khỏi bệnh nan y’, cái này gọi là ‘trên đời chẳng hiếm chuyện lạ’. Nếu tiên sinh là người có con mắt nhìn hàng, thì lập tức sẽ biết viên thuốc của nhà chúng tôi được làm bằng các dược liệu quý hiếm, như: rết, bọ cạp, hoa kim ngân, đuôi đương quy, xác ve sầu, tằm đông cứng, bột phấn thiên hoa, rồi nấu thành một nồi canh độc, cổ nhân lại nói thế nào nhỉ ‘uống mười thang thuốc, không cần động một mũi kim châm’, lại có câu ‘tám một mũi kim châm, hơn cả mười thang thuốc’, thế mà viên cửu chuyển hoàn hồn đơn gia truyền nhà chúng