Cao Tư Dương thấy mây đen giăng cuồn cuộn khắp bầu trời, đường vắng tanh, tĩnh mịch lạ thường, tứ bề đều là cánh đồng hoang ngoài ngoại ô, cô không phát hiện thấy có điểm gì bất thường, nên quay lại hỏi: “Có thứ gì đâu?”
Hải ngọng cũng nói với Tư Mã Khôi: “Đằng kia chỉ có mỗi khu hỏa táng, canh khuya lắt lẻo thế này, cậu đừng tự nhát ma mình nữa!”
Tư Mã Khôi lắc đầu, ngay bản thân anh cũng không hiểu sao mình lại có cảm giác quái lạ như vậy, anh đành nói: “À, ý tớ bảo cơn dông sắp kéo đến rồi, chúng ta mau về nhà thôi!”
Hải ngọng lắc đầu: “Biết trước thế này, chúng ta đã mượn xe đạp cho rồi, bây giờ phía trước chẳng thấy quán hàng, phía sau chẳng thấy thôn bản, trời lại sắp đổ mưa to, không khéo lại ướt như chuột lột mất thôi!”
Cao Tư Dương trách Tư Mã Khôi: “Khi nãy anh bảo hình như phía sau có thứ gì sắp tiến lại gần, làm tôi giật cả mình đấy! Tôi cứ ngỡ trên đường…”
Tư Mã Khôi bỏ ngoài tai mấy lời Cao Tư Dương vừa nói, anh lại dừng bước chân, quay đầu nhìn phía sau, nhưng vẫn không phát hiện được điểm gì khả nghi.
Hải ngọng thấy phía sau là khoảng không trống trải, thời tiết oi nồng, chẳng có lấy một cơn gió nhẹ. Trên đường ngoài ba người ra, thì ngay cả chó mèo hoang cũng chẳng thấy con nào, lấy đâu ra thứ gì đuổi theo phía sau? Anh bực mình trách Tư Mã Khôi cứ sợ bóng sợ gió vớ vẩn, có điều nghĩ lại anh cũng thấy phải, suốt cuộc đời này, hai người hội anh chưa bao giờ được trải qua một ngày yên ổn, chính vì vậy nên bây giờ Tư Mã Khôi mới thấy không quen.
Tư Mã Khôi thầm nghĩ, chắc là vậy thật, mà dẫu không có gió lay cỏ động thì ở cánh đồng hoang ngoài ngoại ô vẫn thường xuất hiện bọn chuột đồng, có lẽ tại thần kinh anh quá căng thẳng cũng nên, thế là anh bắt đầu phiếm chuyện với Hải ngọng và Cao Tư Dương, bảo rằng khi nãy chỉ mải nói chuyện mà quên chưa ăn no, chút nữa về phải nấu ít mỳ ăn đêm mới được.
Hải ngọng vừa rút đèn pin ra soi, vừa bảo: “Thời tiết nóng thế này ăn mỳ làm gì, nếu ăn thì phải ăn mỳ lạnh Triều Tiên. Nghe nói, trong thành có quán Diên Cát, ngày xưa ngay cả đồng chí Kim Nhật Thành nhân chuyến sang thăm Trung Quốc cũng vào quán này ăn mỳ lạnh đấy, hương vị mỳ ở quán đó rất truyền thống, thời tiết nóng bức thế này mà ăn một bát mỳ lạnh trộn thật nhiều ớt với đồ nhắm lạnh và một chai bia lạnh thì tuyệt cú mèo…
Mới nói đến đây, thì anh nhìn thấy đằng trước bỗng xuất hiện một con chó hoang bị trụi hết lông đuôi, thân mình gầy nhom chỉ còn nhúm da bọc xương, nhưng hai con mắt lộ ra hai tia hung quang rất dữ dằn, nó đi về phía ba người.
Hội Tư Mã Khôi đương nhiên chẳng có gì phải sợ sệt con chó hoang ở vùng ngoại ô này, chỉ cần người không trêu chó thì chó sẽ chẳng bao giờ cắn người, cứ mặc kệ con chó đó đường ai nấy đi thì tự nhiên sẽ bình an vô sự.
Con chó đi lướt qua ba người. Ở vùng ngoại ô, gặp chó hoang lảng vảng là chuyện rất bình thường, có điều Tư Mã Khôi nhìn thấy trên mình con chó này còn loang ít máu tươi. Anh nghĩ, có lẽ nó chui vào trong hố bắt chuột đồng, lúc chui ra bị thành hang làm xước da nên trên lông vẫn còn vết máu đây mà. Anh cũng chẳng để tâm vào con chó nữa, nhưng lúc này anh lại đột nhiên cảm thấy như phía sau có vật gì đang sắp sửa tiến lại gần, anh vô thức quay đầu lại nhìn, thì phát hiện con chó trụi lông đuôi khi nãy đã biến mất tăm mất dạng.
Tư Mã Khôi giật đèn pin trong tay Hải ngọng soi kỹ phía sau, con đường đất trải dài xuyên qua cánh đồng hoang, tuy mây đen che kín bầu trời, đường cũng chẳng có đèn, nhưng không có nghĩa là tối thui không nhìn thấy gì. Địa thế ở đây bằng phẳng, khoáng đạt, nhìn ngút tầm mắt, anh không phát hiện xung quanh có lùm cỏ hay hang đất nào, con chó trụi lông đuôi vừa đi qua trước mặt, còn chưa đầy mấy giây mà sao đã biến mất ngay được?
Hai người bạn đồng hành cũng thấy chuyện này hết sức quái dị. Lúc trước, Tư Mã Khôi đã linh cảm dường như có vật gì xuyên qua tầng mây chuẩn bị tiếp cận đến gần, chẳng biết có phải vật đó đã nuốt mất con chó hoang vừa đi qua hay không? Nó là vật gì mà chẳng hề phát ra tiếng động nhỏ vậy?
Ba người nghĩ đến đó đã thấy da đầu tê bì, Tư Mã Khôi soi đèn lên không trung, nhưng trên đó tối tù mù, chẳng nhìn thấy bất cứ vật gì.
Hải ngọng nhặt một viên đá, lấy hết sức ném về phía sau, chẳng biết nó đã rơi xuống nơi nào trong bóng tối. Bên vệ đường có một tấm biển chỉ đường bàng gỗ đứng cô độc, lẻ loi, ngoài ra chẳng còn gì khác.
Tư Mã Khôi thầm thấy quái lạ, anh nghĩ: “Quanh đây không hề có hang đất, sao con chó đó nói biến là biến mất ngay được? Chẳng lẽ nó hóa thành không khí được sao?”, rồi anh lại nghĩ: “Hay con chó đó đã trốn vào chỗ nào đó, chẳng qua bọn ta không phát hiện ra mà thôi…”
Cao Tư Dương căng thẳng, cô vội giục Hải ngọng và Tư Mã Khôi: “Đừng tìm kiếm nữa, chúng ta mau đi thôi!”
Tư Mã Khôi thấy việc này rất bất thường, anh linh cảm sắp tới chắc chắn sẽ xảy ra biến cố lớn, nguy hiểm đang kéo đến gần, nhưng anh lại chẳng lần ra manh mối gì, chỉ biết đề phòng cảnh giác hơn mà thôi, anh gọi Hải ngọng đừng nấn ná ở đây thêm nữa.
Ba người bật đèn pin, tiếp tục tiến về phía trước trên con đường rộng thênh thang và tối đen như mực vừa đi vừa không kìm được, cả hội lại bàn về chuyện con chó hoang vừa đột nhiên biến mất, chuyện đó đúng là quái dị ngoài sức tưởng tượng.
Hải ngọng hỏi Tư Mã Khôi: “Địa bàn này nằm trong lòng bàn tay cậu còn gì, trước đây cậu có nghe nói nơi đây từng xảy ra chuyện gì quái lạ không? Cắm đầu cắm cổ đi mãi thế này cũng thấy vô vị, đằng nào cũng rỗi, hay cậu kể vài câu chuyện đi, nghe cho đỡ buồn!”
Tư Mã Khôi nói: “Nghe nói trước giải phóng, khu vực này toàn là cỏ dại và đầm lầy, nó được sử dụng làm pháp trường chuyên hành hình tử tội. Trước thời nhà Thanh, người ta thường áp giải phạm nhân ra đầu đường cổng chợ để hành quyết, nhằm mục đích thị uy dân chúng, nhưng bắt đầu đến thời Dân quốc và thời kỳ quân Nhật chiếm đóng, thì người ta mới chuyển địa điểm của pháp trường đến đây. Trong cánh đồng hoang có một cái hố rất lớn, trong những tử tội, ngoại trừ kẻ gian thần xiểm nịnh ra, thì không thiếu trung lương nghĩa sĩ hoặc người tốt bị hàm oan. Sau khi hành quyết, tất cả những thi thể không có người nhà đến thu liệm thì đều được cuộn trong chiếu cói, buộc túm hai đầu bằng dây thừng, rồi kéo lê đến miệng hố và đá bay xuống đó, mặc cho xương thịt mục nát và bốc mùi hôi thối, chó tha quạ mổ, cảnh tượng thê thảm khó nói thành lời, bởi vậy nơi ấy chẳng bao giờ thái bình, hễ đến tối là ma hờn quỷ khốc. Nghe nói có người đi qua đây, đột nhiên thấy cái đầu người chết từ trên trời rơi xuống ngay trước mặt, anh ta sợ chết đứng. Thực ra, cái đầu đó bị mấy con quạ đen tranh nhau chí chóe trên trời, rồi không may bị tuột rơi xuống ngay sát anh ta. Những chuyện tương tự như vậy từng xảy ra khá nhiều, tuy nhiên chuyện này vẫn có thể giải thích được, còn nhiều chuyện khác đến nay vẫn là một ẩn số không lời giải. Sau đó, người ta mời thầy phong thủy đến xem đất, phát hiện ở đây có một ngôi miếu cổ bỏ hoang, trong miếu có tòa bảo tháp bảy tầng, tòa bảo tháp này nằm chính giữa giao lộ, nó chắn ngang con đường đi đầu thai của các cô hồn dã quỷ, nên chúng cứ lảng vảng quanh đây, không siêu thoát được. Mãi đến khi người ta dỡ bỏ tòa bảo tháp