Trong phòng hứng nắng không có lò sưởi, vào lúc chạng vạng sẽ vô cùng lạnh lẽo, trời có mưa hay không cũng vậy nhưng nó vẫn là nơi mà Harry thích đến nhất.
Chờ đến khi cậu đã có thể hoạt động trở lại nhờ cây nạng, mỗi ngày cậu đều khó khăn xuống lầu, băng qua những dãy hành lang để đến với phòng hứng nắng như một người khổng lồ có một chân trong những quyển sách vẽ.
Cậu thích khung cửa sổ thủy tinh chiếm cả một mặt tường và những đóa phong lan được treo lơ lửng trên giá...!Mặc dù những thực vật nhiệt đới khó chiều này đã bị chuyển vào nhà kính không lâu sau đó.
Chiếc lồng vẹt đã biến mất, sân cỏ ngoài cửa sổ hiện lên một màu nâu nhạt mệt mỏi.
Một chú sóc bận rộn chạy nhanh trên mặt đất lót đầy lá rụng, tìm kiếm những quả sồi.
Nhưng chuỗi ngày ăn không ngồi rồi nhanh chóng chấm dứt, Nam tước Loiseau nghĩ rằng đã đến lúc để hai đứa bé trai trở lại con đường học tập, tránh việc "trở thành hai nhóc người rừng".
Vào chiều thứ ba và thứ tư mỗi tuần, hai đứa phải tham gia một lớp học tiếng Pháp, dùng sách cũ của George và Leila; bác sĩ Wilkins sẽ đến vào mỗi sáng thứ năm để kiểm tra tình trạng của Harry, nếu có thời gian, ông sẽ tạm thời trở thành thầy dạy địa lý nhưng do gần đây bà Denton ở thị trấn trên mới sinh một cặp sinh đôi nên bác sĩ không còn thời gian.
Cô Carlston từ bưu điện sẽ lái xe tới vào mỗi chiều thứ sáu để dạy hai đứa môn toán, bình thường sẽ ở lại ăn tối; ngoài ra còn có sáng thứ bảy để học lịch sử.
Bài tập không hề ít hơn so với trường học, mỗi đêm, hai đứa bé trai ủ dột ngồi cạnh lò sưởi trong thư phòng trên lầu để suy nghĩ về điểm số và ngữ pháp.
Lò sưởi ấm áp, ánh đèn khiến người ta buồn ngủ, mỗi khi hai đứa nhịn không được mà nhắm mắt lại, Nam tước Loiseau sẽ dùng sức gõ bàn, đánh thức hai đứa dậy.
Alex không thích sự sắp xếp này nhưng vẫn chấp nhận, lén lè lưỡi sau bóng lưng cha.
Tiếng Pháp không là vấn đề gì đối với hắn nhưng tiến triển của Harry lại chậm hơn rất nhiều, cậu phải mất một lúc mới có thể nói được câu "Trong phòng có một con mèo" một cách trọn vẹn.
Hai đứa nhanh chóng tìm ra một phương án hỗ trợ lẫn nhau, Alex thay Harry làm bài tập luyện nói, Harry phụ trách bài tập môn toán của hai người.
Tiếc là chưa tới một tuần, Nam tước Loiseau đã phát hiện ra mánh khóe nho nhỏ này, ông dời bàn ghế ở cạnh lò sưởi sát tường sang hai đầu của thư phòng, tách hai đứa học sinh lanh chanh này ra xa.
Chủ nhật và thứ hai là ngày nghỉ nhưng phạm vi hoạt động của Harry có hạn, phần lớn thời gian chỉ ngồi cạnh bên đài phun nước.
Sau khi Lyle đầu quân, không còn người nào chịu dọn dẹp đài phun nước nữa, lá cây và phù sa lắng sâu dưới đáy hồ, nước vừa cạn vừa đục, nhìn qua cứ như một vũng bùn lầy.
Vườn hoa vào cuối mùa thu hiện lên với một diện mạo khác, màu nâu và màu xám tro chậm rãi lan rộng, thấm ướt từng bụi cây, bụi hoa hồng và cả bãi cỏ.
Sau một cơn mưa, chiếc lá khô cuối cùng còn bám trên cành cây cũng đã rụng, sóc và chim cũng từ đó biến mất.
Martha đan cho Harry một chiếc khăn quàng, nó quá lớn, trông giống một chiếc chăn màu xanh đậm hơn.
Cậu thường xuyên quấn chiếc khăn quàng này quanh cổ rồi ngồi bên bậc thang, cây nạng để một bên, cầm một quyển sách vốn dĩ không hề đọc lấy một chữ rồi ngồi ngẩn người về phía cành cây trơ trụi.
Cách đây không lâu, Alex còn cùng cậu mai táng chú chim sẻ đã chịu đủ mọi hành hạ ở dưới cái cây này.
Ngày 15 tháng 11, George vẫn không rõ tung tích.
Rốt cuộc bọn họ cũng biết được một tin tức: tiểu đội của anh đã bị đuổi sát đến eo biển, sau đó thì mất liên lạc với căn cứ.
Một người phi công đã trốn thoát sau khi nhảy dù xác nhận rằng máy bay chiến đấu của George đã bị bắn trúng nhưng anh ta không thể khẳng định rằng George có nhảy dù hay hạ cánh khẩn cấp hay không.
Lyle - đứa con trai út của người làm vườn - cũng không có tin tức giống vậy.
Điện thoại và điện báo thường xuyên bị cắt đứt, tựa như thế giới ngoài kia đang dần sụp đổ, mà thị trấn nhỏ ở phía tây nam của bọn họ lại chính là hòn đảo hoang cuối cùng.
Cho dù thỉnh thoảng cũng có tin tức truyền vào nhưng những tin ấy đều vô cùng ảm đạm.
Ngày 17 tháng 11, Birmingham bị đánh bom; năm ngày sau là đến Southampton, mọi người đồn rằng thành phố với đầy bến tàu này chẳng còn gì ngoài những đống đổ nát.
Ngày 28 tháng 11, đến lượt Liverpool chịu trận.
Ngày 29 tháng 11, thứ sáu, cô Carlston đến đưa điện báo.
Cô đạp xe đạp tới, thở hồng hộc, bởi vì trạm xăng mà dân làng vẫn hay dùng đã tạm ngừng hoạt động mà không biết khi nào sẽ mở lại.
Cô chắc chắn đã xem qua nội dung của bức điện báo vì khi cô giao điện báo cho Martha, gương mặt cô mỉm cười, hai gò má đỏ bừng, không biết là do mệt vì đạp xe hay do hưng phấn.
Điện báo được gửi tới từ George, vô cùng ngắn gọn, anh bảo rằng mọi chuyện vẫn ổn, anh sẽ trở về vào lễ giáng sinh.
Anh ấy thật sự đã giữ lời hứa.
George Loiseau trở về vào tối ngày 21 tháng 12 năm 1940, một mình anh ngồi xe lửa đến, trước đó vẫn chưa thông báo với bất cứ ai.
Vào bữa sáng hôm sau hai đứa bé trai mới nhìn thấy anh, anh đã thay bộ đồng phục không quân, mặc một chiếc sơ mi rộng thùng thình cùng áo len Fair Isle, cánh tay bên phải có bọc vải trắng.
Khi nhìn thấy Alex, anh vội đứng lên, mỉm cười, dùng một tay để ôm đứa em trai vào trong lồng ngực.
"Chào buổi sáng, cậu Prudence." Lúc thả em trai xuống lại mặt đất, George nói, xoa xoa tóc Harry, Harry để ý thấy một vết sẹo rõ ràng ở trên con mắt trái của anh: "Anh nghe nói cha đã ép các em phải học tiếng Pháp."
"Có ép đâu." Nam tước bỏ tờ báo xuống, ngồi từ đầu bên kia bàn ăn chen miệng vào.
"Chào buổi sáng." Harry nhỏ giọng trả lời, không chắc George có nghe thấy hay không.
"Leila không định trở lại ạ?"
"Con bé đến Brighton rồi." Nam tước Loiseau trả lời ngắn gọn.
Harry không nghe được đoạn đối thoại tiếp theo bởi vì khi Martha vừa nghe thấy "Brighton", bà đã vội đưa hai đứa trẻ ra ngoài, đeo mũ và găng tay vào cho hai đứa rồi giục hai đứa ra ngoài vườn hoa chơi.
Hôm đó là một ngày trời trong nhưng gió rất to, rét lạnh thấu xương, hai đứa bé trai chơi ở ngoài chưa tới mười phút đã vội chui vào nhà kính, đi băng qua những dãy thực vật nhiệt đới được treo trên giá.
Căn phòng thủy tinh sáng ngời này thật ấm áp nhưng cũng rất ẩm ướt, hơi nước khiến người ta chán ghét phủ lên người như một tấm bạt bằng vải bố.
Hai đứa bé trai mở cửa bên cạnh rồi băng qua một dãy hành lang đầy giá rét để chạy đến phòng hứng nắng.
Alex cầm lấy bút chì và quyển sổ tay - đó là quyển sổ tay mà dạo gần đây hắn thường hay viết viết vẽ vẽ vào trong nhưng lại không muốn Harry nhìn thấy nội dung trong đó -