Chương 16
Sau khi lấy hành lý ở sân bay Haneda, Yuki cho tôi biết địa chỉ nơi nó sống.
Hakone.
"Khá là xa đấy," tôi nói. Đã hơn tám giờ tối, kể cả nếu tôi có gọi taxi đưa con bé về, chắc nó cũng sẽ kiệt sức trước khi tới được nhà mất. "Cháu có ai ở Tokyo không? Bà con hay bạn bè gì đó?"
"Chẳng ai cả, có một chỗ ở Akasaka. Nó nhỏ thôi, nhưng mẹ cháu thường tới đấy ở mỗi khi lên thành phố. Cháu có thể tới đó nghỉ. Hiện giờ không có ai ở đó cả."
"Cháu không có người thân nào ngoài mẹ sao?"
"Không," Yuki trả lời. "Chỉ có mẹ và cháu thôi."
"Hmm," tôi ậm ừ. Một gia cảnh không bình thường, nhưng đó đâu phải là chuyện của tôi. "Hay là tới chỗ chú trước. Rồi ta đi ăn tối ở đâu đó. Sau đó chú sẽ chở cháu về căn hộ ở Akasaka. Vậy được không?"
"Tùy chú."
Chúng tôi bắt taxi tới căn hộ của tôi tại Shibuya, thay bộ quần áo mặc từ khi tôi còn ở Hokkaido. Áo da, áo len rồi giày thể thao. Sau đó hai chú cháu ngồi lên chiếc Subaru của tôi, mất khoảng mười lăm phút để tới một nhà hàng Ý mà thỉnh thoảng tôi hay tới ăn. Có thể coi đó là kỹ năng nghề nghiệp cũng được; tôi biết cách tìm chỗ nào ăn uống ngon lành.
"Giống như bọn lợn ở Pháp ấy," tôi nói với con bé, "chúng được huấn luyện kêu ủn ỉn khi tìm thấy một cây nấm truyp."
"Chú không thích công việc của mình à?"
"Không. Có gì để mà thích cơ chứ. Tất cả đều vô nghĩa. Chú tìm thấy một quán ăn tốt. Viết bài về nó rồi đăng tạp chí. Hãy đến quán này, thử món này đi. Sao phải làm thế chứ? Sao người ta không tự đến chỗ nào tùy thích và gọi những món họ muốn? Tại sao họ cần ai đó bảo họ những điều ấy. Thực đơn để làm gì? Và rồi, sau khi chú đưa chỗ đó lên tạp chí, nhà hàng ấy bỗng trở nên nối tiếng để rồi đồ ăn và phục vụ rơi xuống địa ngục. Luôn luôn thế. Cân bằng giữa cung và cầu bị phá vỡ. Và người đã làm rối beng lên chính là chú. Cứ thế cứ thế từng nơi một, gọn ghẽ và ngăn nắp. Chú tìm ra chỗ nào sạch sẽ tử tế rồi chiêm ngưỡng cái quá trình nó trở nên bẩn thỉu. Nhưng đó chính là cái người ta gọi là thông tin. Khi lôi ra những vết bẩn trong từng ngõ ngách nhỏ nhất thì người ta gọi là thông tin có giá trị. Có thể nó làm cháu thấy bực mình, nhưng đó là công việc của chú."
Yuki nhìn tôi từ phía đối diện, cứ như thể đang ngắm một động vật quý hiếm trong vườn bách thú.
"Nhưng chú vẫn làm công việc đó," nó nói.
"Đó là nghề của chú," tôi trả lời, rồi chợt nhớ ra rằng mình đang nói chuyện với một cô bé mười ba tuổi. Tuyệt thật. Mình đang làm gì vậy, ba hoa với một con bé thậm chí còn chưa bằng nửa tuổi đời mình ư? "Đi nào" tôi nói. "Muộn rồi đấy. Chú sẽ đưa cháu về căn hộ đó."
Cả hai lên chiếc Subaru của tôi. Yuki chọn một cuộn băng trong đống cassette rồi bật lên. Nhạc để nghe khi lái xe. Đường phố vắng tanh, chẳng mấy chốc chúng tôi đã tới Akasaka.
"Cháu chỉ đường đi," tôi nói.
"Không," Yuki trả lời.
"Sao cơ?"
"Cháu nói là sẽ không chỉ đường cho chú đâu. Cháu chưa muốn về nhà."
"Nào, hơn mười giờ rồi đấy," tôi lý sự. "Hôm nay là một ngày dài vất vả. Chú đang mệt bã cả người ra rồi."
Những lời đó dường như không mấy tác động đến Yuki. Con bé thật không thể lay chuyển. Nó cứ ngồi đó, nhìn tôi chằm chằm, tôi thì cố nhìn đường. Không có chút cảm xúc hay bất cứ cái gì tương tự như thế trong ánh nhìn của con bé, nhưng nó vẫn khiến tôi thấy bồn chồn. Sau một hồi, nó nhìn ra ngoài cửa sổ.
"Cháu không buồn ngủ," nó lên tiếng. "Với lại, chú đưa cháu về là cháu lại chỉ có một mình, nên cháu muốn cứ đi tiếp thế này và nghe nhạc nữa."
Tôi ngẫm nghĩ một lúc. "Thôi được. Chúng ta sẽ đi thêm một tiếng nữa. Rồi sau đó cháu sẽ về nhà ngủ. Được không?"
"Được." Yuki trả lời.
Thế là hai chú cháu lại dạo xe quanh Tokyo, vừa đi vừa nghe nhạc. Chính vì con người cứ thoải mái làm những điều như vậy nên bầu không khí mới trở nên ô nhiễm, tầng ozone bị thủng, tiếng ồn tăng lên, người người trở nên dễ cáu kỉnh, và nguồn tài nguyên thiên nhiên dần dần cạn kiệt. Yuki ngả đầu ra sau ghế lặng im ngắm nhìn thành phố về đêm.
"Mẹ cháu đang ở Kathmandu à?" tôi hỏi.
"Vâng," con bé mệt mỏi trả lời.
"Nghĩa là cháu sẽ phải ở một mình đến khi mẹ quay về?
"Mẹ con cháu có một cô giúp việc ở Hakone."
"Hừm, chuyện như thế này là thường xuyên à?"
"Ý chú là việc mẹ bỏ mặc cháu?"
"Phải."
"Lúc nào cũng thế. Công việc là thứ duy nhất mẹ cháu nghĩ đến. Không phải mẹ ích kỷ hay làm sao, chỉ là con người bà ấy là vậy. Bà ấy chỉ nghĩ đến bản thân mình. Đôi khi còn quên mất sự có mặt của cháu nữa. Chú biết đấy, cháu cứ như một cái ô, chỉ thấp thoáng lướt qua óc bà ấy rồi biến mất. Bà ấy vứt cháu ở đâu cũng được. Nếu trong đầu bà ấy nghĩ là cần phải đến Kathmandu, thế là xong, bà ấy đi luôn. Sau đó bà ấy sẽ xin lỗi. Nhưng rồi lần sau cũng lại như thế. Mẹ kéo cháu theo tới tận Hokkaido trong một cơn tùy hứng - chuyện này thật nực cười - nhưng sau đó thì bỏ cháu lại một mình trong phòng suốt ngày. Hiếm khi mẹ quay lại khách sạn và cháu thường phải ăn một mình... Nhưng cháu quen rồi, và cháu cũng không trông chờ gì nhiều hơn thế. Mẹ nói sẽ quay lại trong vòng một tuần, nhưng cũng có thể từ Kathmandu bà ấy sẽ lại bay đến nơi nào khác không chừng."
"Tên mẹ cháu là gì?" tôi hỏi.
Tôi vẫn không biết mẹ Yuki là ai.
"Nghệ danh của mẹ cháu là," con bé nói, "Ame, tức làMưa.
N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Thế nên cháu tên là Yuki.Tuyết. Ngớ ngẩn phải không? Nhưng đó là ý tưởng hài hước của mẹ cháu đấy."
Tất nhiên tôi đã nghe nói về Ame. Ai lại không chứ? Có lẽ chị ta là nữ nhiếp ảnh gia nổi tiếng nhất đất nước này. Chị ta rất nổi tiếng, nhưng bản thân không bao giờ xuất hiện trên phương tiện truyền thông. Chị ta giữ kín đời tư. Chỉ nhận làm những việc mình thích. Chị ta cũng nổi tiếng với tính cách lập dị. Những bức ảnh của chị ta nổi tiếng vì chúng khiến người xem kinh ngạc và bị ám ảnh.
"Nói vậy tức cha cháu là nhà văn Hiraku Makimura?" tôi hỏi.
Yuki nhún vai. "Ông ấy không phải người xấu, chỉ bất tài thôi."
Cách đây vài năm, tôi có đọc vài cuốn tiểu thuyết thời kỳ đầu và một tuyển tập truyện ngắn của Hiraku Makimura. Khá được. Văn phong và quan điểm đều mới lạ. Đó là lý do khiến chúng bán chạy. Hồi ấy, ông ta là người được ưa thích trên văn đàn. Makimura thường xuyên xuất hiện trên ti vi, trên các tờ tạp chí, trình bày quan điểm về những vấn đề xã hội. Rồi ông ta kết hôn với một nhiếp ảnh gia đầy triển vọng có nghệ danh là Amé. Đó là đỉnh cao của Makimura. Sau đó là thời kỳ thoái trào. Ông ta không viết được tác phẩm nào ra hồn. Hai hay ba cuốn sách tiếp sau đó chỉ như trò đùa. Giới phê bình tỏ thái độ gay gắt, sách chẳng bán được mấy.
Rồi Makimura bắt đầu lột xác từ một tiểu thuyết gia theo trào lưu ngây thơ(22), bỗng ông ta trở thành một cây viết tiên phong. Nhưng những khiếm khuyết trong tác phẩm vẫn không được cải thiện. Makimura dập khuôn phong cách của mình theo trào lưuLàn Sóng Mới(23)của Pháp, nói to tát vậy chứ thực ra cũng chỉ là khoa trương. Thật sự thảm hại. Makimura xoay xở kiếm được sự đồng tình của một vài nhà phê bình bất tài. Nhưng sau hai năm lặp đi lặp lại cùng một vở, đến cả những người ấy cũng chán ngấy ông ta. Tài năng của Makimura đã biến mất, nhưng ông ta vẫn khăng khăng bám trụ, giống một con chó săn đã-từng-dũng-mãnh giờ chỉ biết suốt ngày theo đuôi bọn chó cái nhà hàng xóm. Đó cũng là khoảng thời gian, ông ta và Amé chia tay. Hay nói rõ hơn, là Ame bỏ ông ta. Ít ra thì đó cũng là điều người ta nói trên báo đài.
Nhưng đó chưa phải là đoạn kết của Hiraku Makimura. Vào đầu những năm bảy mươi, ông ta dấn thân vào một thể loại mới, viết du ký với tư cách là một nhà thám hiểm tự phong. Tạm biệt phái tiên phong, chuyển sang hành động và phiều lưu. Ông ta tới những nơi xa xôi và nguy hiểm ở tận cùng ngõ ngách hành tinh này. Ông ta ăn thịt hải cẩu sống với dân Eskimo, sống với đám người lùn, xâm nhập vào những trại du kích trên núi Andes. Makimura chê bai đám học giả chỉ biết có bàn giấy và những kẻ suốt ngày ru rú trong thư viện. Ban đầu cũng chẳng tệ lắm, nhưng sau mười năm, văn phong của ông trở nên nghèo nàn. Xét cho cùng, chúng ta đâu còn sống trong thời đại của Livingstone hay Amundsen(24). Những cuộc phiêu lưu không còn thú vị như ngày xưa, dẫu vậy chưa lúc nào văn của Makimura lại khoa trương đến thế.
Và điều đáng nói là, chúng không còn là nhũng cuộc phiêu lưu thật sự nữa. Giờ đây, Makimura kéo theo cả một lô một lốc tùy cùng gồm điều phối viên, biên tập viên, cả quay phim nữa. Thỉnh thoảng đài truyền hình cũng tham dự, và thế nào cũng có cả tá nhân viên cùng với các nhà tài trợ bám theo sau. Mọi thứ càng lúc càng giả tạo. Chẳng mấy chốc, ai cũng có số điện thoại của ông ta.
Có thể Makimura không phải là người xấu. Nhưng đúng như lời cô con gái nhận xét, ông ta không có tài.
Chẳng còn gì để nói về người cha của Yuki nữa. Con bé cũng chẳng muốn nói về cha mình. Tôi áy náy vì đã nhắc đến ông ta.
Chúng tôi ngồi yên lặng nghe nhạc. Tôi lái xe, mắt nhìn đèn chiếc BMW màu xanh dương