Mặt mũi của Viêm lớn lên rất giống Thuần Vu Hoàng Dạ,Thái thượng hoàng của Đại Yến.
Nghe nói hắn là nam tử có diện mạo tuấn mỹ nhất Đại Yến.
Ô Tư Mạn chưa từng nhìn thấy Thuần Vu Hoàng Dạ tuấn tú như thế nào khi hắn hai mươi tuổi, nhưng nhìn tướng mạo Viêm là có thể đoán được một hai phần.
Cho dù là lấy thẩm mỹ của người Tây Lương để đánh giá thì vẻ anh tuấn của Viêm cũng được xếp ở hạng đầu, chính là cái kiểu tuấn tú mà đi một vòng trên phố cũng có thể thu được vô số tâm hồn thiếu nữ.
Ô Tư Mạn bỗng có chút hối hận, quả thật không nên để Viêm tới Doanh trại Đấu Thú.
Lũ gia hỏa nơi đó đều là sắc dục huân tâm, tựa như lang như hổ.
"Viêm, vẫn là bổn vương tốt nhất, đủ hòa nhã lịch sự đúng không?" Gương mặt Ô Tư Mạn mang theo nét tươi cười nhìn Viêm: "Bổn vương đã từng nói sẽ đối xử thật tốt với ngươi, đó chính là lời nói thật lòng."
Từ nhỏ đến lớn hắn chưa từng giặt quần áo cho người khác, cũng chưa bao giờ hầu hạ ai tắm gội.
Nếu bây giờ Viêm tỉnh lại, nhất định sẽ cực kỳ cảm động vì điều này, cũng sẽ thay đổi cách nhìn đối với hắn.
Chỉ là, trước mắt hắn chưa thể bại lộ thân phận.
Ô Tư Mạn cảm thấy hắn cần phải chọn một thời cơ tuyệt diệu khiến Viêm "không phải hắn không gả" thì mới có thể hiển lộ bản thân.
Dù sao những gút mắt giữa hắn cùng Viêm lúc còn ở Đại Yến cũng không phải chỉ một câu "đã qua rồi" là có thể giải quyết.
Nếu hắn đã làm tổn thương trái tim Viêm, làm mất đi tín nhiệm của Viêm thì hắn lại càng phải bỏ ra nhiều tâm tư hơn để bù đắp lại.
Nhưng nếu muốn nói tới nguyên nhân gây ra việc này, thật ra tháp tư tế cũng có trộn lẫn một chân.
Nhiều năm trước...!
Trời tối đến mức tựa như một vực sâu nằm trên đỉnh đầu, có thể cắn nuốt hết thảy vạn vật trên thế gian.
Ô Tư Mạn mặc một thân trường sam bằng sợi sa tanh màu vàng, mang một đôi giày gấm trắng thêu viền vàng, đi trên cây cầu "Vĩnh Quyết" nối liền giữa Tháp Tư Tế cùng Vương cung.
Cầu Vĩnh Quyết rất dài, vừa nhỏ vừa hẹp, chỉ đủ để hai người sóng vai đi qua, cũng không thể cưỡi ngựa, bởi vì cho dù là ngựa hay lạc đà một khi đi tới nơi này đều không chịu bước về phía trước dù chỉ là một bước.
Từ mặt cầu cho đến trụ cầu đều được làm bằng vàng đen, đen bóng và vững chắc.
Nghe nói lúc xây dựng cây cầu treo hình vòm này đã có vô số thợ thủ công cùng lao dịch bị ngã chết, không biết có phải là do lấy tính mạng bọn họ tế thiên địa hay không mà cây cầu này mặc dù đã trải qua trăm ngàn năm mưa gió, cùng vô số chiến sự nhưng vẫn trường tồn, vững chắc như lúc ban đầu.
Dưới sự hầu hạ của tổng quản nội vụ Nhã Nhĩ Tháp, Ô Tư Mạn đi về phía Tháp Tư Tế cao ngút trời.
Mái tóc bạc của hắn rũ phía sau lộng lẫy như một dòng ngân hà, là ánh sáng duy nhất trong vùng Biển Đen.
Tháp tư tế ban ngày cùng ban đêm là hai cảnh tượng hoàn toàn bất đồng.
Tựa như nhân gian cùng Minh giới.
Tây Lương có rất nhiều truyền thuyết về sức mạnh và quỷ thần bao gồm cả chuyện xưa về quạ đen ngậm vong hồn đi về Minh giới.
Ô Tư Mạn kính trọng những truyền thuyết này cùng với lực lượng của thần tiên, ma quái, nhưng không e ngại.
Sẽ không có ai tới bái phỏng trưởng lão tư tế của Tháp Tư Tế vào thời khắc tối tăm nhất trong một ngày như vậy.
Cũng chỉ có hắn đi trên cầu Vĩnh Quyết, nghe tiếng gió dưới cầu như quỷ khóc sói gào mà còn đi một cách không nhanh không chậm giống như đang tản bộ ở Ngự hoa viên.
Ô Tư Mạn đi vào trước cửa của Tháp Tư Tế.
So với tháp cao rộng lớn, chiếc cửa này cũng không có gì đặc biệt.
Cửa gỗ đen nhánh với những hoa văn thô ráp, trên then cửa được khảm hai chiếc vòng bằng đồng, trên đỉnh chiếc vòng được khắc một đôi quạ đen có mỏ nhọn, trong miệng còn ngậm một người đang co quắp thành một đoàn với vẻ mặt đầy thống khổ.
Ô Tư Mạn còn chưa đánh lên chếc vòng gõ cửa, cánh cửa lớn nặng trĩu đã tự động mở ra, bốn vị nha linh thuật sĩ khoác áo choàng đen cầm đèn da dê trong tay, hành lễ một cách cung kính: "Bệ hạ."
Thuật sĩ dẫn đầu tên là Cáp Lí Qua, là một nam tử trung niên, mũi gầy thịt mỏng, mang tâm sự đầy mặt.
Hắn cúi đầu hạ mi nói: "Sao ngài lại tới đây?"
"Bổn vương phê tấu chương cả đêm, bỗng nhiên nhớ tới một việc." Ô Tư Mạn khẽ cười nói: "Trưởng lão tư tế vẫn còn đang đánh cược với bổn vương."
"Chuyện này..." Mặt Cáp Lí Qua lộ ra vẻ khó xử: "Trưởng lão tư tế đang xem xét "Tinh Sa Trận", sợ là bây giờ bệ hạ không thể gặp được lão nhân gia.
"Thì ra là đang bói toán." Ô Tư Mạn cười nói: "Chỉ còn nửa canh giờ nữa là đến hừng đông, tinh sa trận gặp ánh sáng sẽ không linh nghiệm, vậy bổn vương sẽ chờ hắn nửa canh giờ."
"....!Vậy mới bệ hạ qua bên này." Cáp Lí Qua nhẹ giơ tay ý bảo.
Ô Tư Mạn gật đầu đi ở đằng trước.
Bên trong Tháp Tư Tế thoạt nhìn vừa to vừa rộng hơn nhiều so với bên ngoài, có lẽ là do nơi này cũng không có nhiều cột ở hành lang, nên đi tới bất cứ tầng nào cũng đều thấy những gian phòng và đình viện vắng vẻ, chỉ là ngẫu nhiên bày vài món vật dụng trong nhà cũ kỹ.
Mới nhìn thì thấy bàn ghế ở đây đều được bày biện rất bình thường, nhưng đi một lát sẽ phát hiện, những gia cụ, trà nước này đều được bố trí rất hợp lý.
Khi ngươi muốn ngồi, trước mắt sẽ có ghế, khi ngươi khát nước, sẽ có chén trà ngay trước mặt.
Đồ vật chỗ này dù là vật sống hay là vật chết đều lộ ra một vẻ huyền bí không thể nói rõ.
Muốn nói tới đồ vật ít ỏi nhất ở đây có lẽ chính là hoa hồng và cây xanh, ở trong khoảng sân lớn lớn bé bé này không có người trồng hoa và cây, nhưng lại có không ít hồ nước cùng hố cát lớn nhỏ.
Công việc hàng ngày của đám tư tế là lau chùi tượng thần ở mỗi tầng, chiêm tinh, bói toán thời cơ trồng trọt, thời gian nổi lên và hạ xuống của bão cát cùng với chủ trì việc tang lễ.
Bọn họ bận rộn nhất là vào dịp lễ tết, họ cần phải chủ trì những nghi thức lễ hội lớn nhỏ.
Khi Ô Tư Mạn đi về phía "phòng xem bói" ở tầng trên cùng, chợt dừng bước tại "Mộ viên".
Mộ viên nằm ở tầng giữa của Tháp Tư Tế, là nơi mai táng những tư tế đã qua đời.
Dung nhan sau cùng của mỗi một vị tư tế đều được lưu lại bằng tượng "ngọc thạch".
Nghe nói, có không ít tư tế lúc thi pháp hàng yêu bị "ác linh" phản phệ mà chết bất đắc kỳ tử, cho nên phần lớn những hình người cao thấp, lớn bé trong cả khu vườn đều mang bộ mặt dữ tợn, tứ chi vặn vẹo.
Cho dù đi vào tòa mộ viên này lúc ban ngày dưới ánh mặt trời xán lạn cũng vẫn cảm thấy khó coi, càng không cần phải nói tới ban đêm, chỉ có thi cốt biến thành lửa lân tinh lam lục bốc cháy kẽo kẹt dọc theo hồ cát.
Nghe qua, tựa như tiểu quỷ có hàm răng sắc bén đang gặm thịt người.
Ô Tư Mạn đi ngang qua mộ viên, trước cửa đá có điêu khắc quạ đen khổng lồ với cái miệng sắc bén, hắn đột nhiên nổi lên hứng thú, muốn đi vào xem một chút.
Cáp Lý Qua sửng sốt, đang định ngăn lại, thì Ô Tư Mạn đã lên tiếng trước: "Bổn vương đi gặp một người quen cũ, các ngươi không cần phải đi theo."
Vương lệnh không thể trái, nhất là vị Quân vương kế thừa "Thánh Vực giải tội", Cáp Lý Qua ra hiệu bằng ánh mắt với thuộc hạ, mọi người đều ở lại trước cửa mộ viên, yên lặng chờ Ô Tư Mạn.
"Người quen" của Ô Tư Mạn được mai táng ở bên bờ một hồ nước đen trong mộ viên.
Hắn đã tới nhiều lần, nên dù là trong bóng đêm tăm tối, hắn vẫn có thể ngựa quen đường cũ, thuận lợi mà tìm được nơi đó.
Đây là một ngôi mộ thuần màu trắng không tì vết giống như bạch ngọc, hoàn toàn khác biệt với những pho tượng có "bộ mặt dữ tợn" khác, thân hình nàng nhỏ dài, dung mạo như nữ thần.
Hai chân "nàng" đứng ở trung tâm hồ nước sâu rộng, nước hồ đen thui, không biết bỏ cái gì vào mà khiến nó tựa như một mặt gương lấp lánh tỏa sáng, đang phản chiếu toàn thân tượng ngọc của "nàng".
Toàn bộ khuôn mặt của nàng đều được điêu khắc bằng bạch ngọc, không có bất cứ màu sắc nào.
Thế nhưng Ô Tư Mạn biết đôi mắt đó là một đôi mắt còn xanh biếc hơn gấp trăm ngàn lần so với lục bảo thạch.
Nàng là thần nữ tiên tri của Tháp Tư Tế, Á Tư Tái Lạp.
Tên nàng có nghĩa là —— sứ giả thánh âm, nàng truyền lại thánh ý tiên tri của nữ thần thượng cổ Tây Lương.
Dựa theo quy chế của Tháp Tư Tế, bất luận là nam hay nữ, chỉ cần là người của Tháp Tư Tế thì cả đời không được kết hôn và sinh con.
Thế nhưng nàng lại sinh hạ liên tiếp hai vị Vương tử, Đan Nhĩ Mạn và Ô Tư Mạn.
Hơn nữa hai đứa nhỏ chỉ kém nhau bảy tháng, nói cách khác, trưởng tử vừa mới đầy tháng đã có mang đứa thứ hai, mà con thứ lại còn sinh non.
Nếu đổi lại là nữ tư tế khác, chắc chắn đã sớm bị đuổi ra khỏi Tháp Tư Tế rồi.
Vậy mà Á Tư Tái Lạp lại không bị, nàng còn làm "Uyển phi" một thời gian, xem như từ Tháp Tư Tế gả đến Vương cung.
Sau đó lại trở về Tháp Tư Tế sinh sống một lần nữa, tựa như chưa từng phát sinh chuyện gì cả, tiếp tục làm thần nữ tiên tri được người người quỳ bái.
Lợi hại nhất chính là năng lực truyền lại