Khi nào A Âm mới thành tiên? Nói chính xác thì bây giờ nàng không phải hạc mà chỉ giống như hạc, dáng vẻ trông hung dữ hơn hạc nhiều.
Khoảng hai năm sau khi A Âm rời khỏi Trường An, trên đường đến La Sát, nàng vẫn chỉ là một luồng khói đen tán loạn, bay đến sa mạc mênh mông. Ban đêm ở sa mạc rất ngắn nên đi đường càng chậm hơn, nàng muốn hút âm khí thì phải chui vào lòng cát rất sâu mới có thể tìm được vài con thú nhưng chúng cũng đã chết quá lâu, không đủ để bổ sung tinh lực.
Thỉnh thoảng nàng bắt gặp thi thể của vài người mang theo rất nhiều oán khí, như vậy mới đủ để tưới nhuần cơ thể nàng. Những ngày ấy thật sự khác xa những năm tháng ở trong rừng, trong rừng có âm khí nhiều hơn oán khí còn trong sa mạc lại là oán khí nhiều hơn âm khí.
Thế là, không biết ngày thứ mấy lạc trong sa mạc, hoặc là nói không biết mấy năm, bởi vì hút quá nhiều oán niệm, nàng cứ tưởng mình chui ra khỏi cát thì vẫn như bình thường nhưng không ngờ lại gào ra tiếng hạc kêu.
Nàng nhìn lại toàn thân mình, chỗ nào cũng là khói đen và lông vũ. A Âm đột nhiên nhớ đến dáng vẻ của những người đàn ông hóa thành quỷ Âm Ma La sau khi chết, nàng tru lên không ngừng, vội tìm đến một con suối để soi mặt mình.
May mắn.
Nàng chưa từng cảm thấy may mắn mình không phải người như lúc này, cũng vì vậy mà giờ nàng không mang dáng vẻ mặt người thân chim. Có lẽ từ lúc quỷ Âm Ma La xuất hiện đã có quy luật hóa thành chim, nàng cũng không tránh khỏi. Nhìn cái bóng của mình trong nước, cơ thể nàng bị lông vũ xám đen che phủ, chân và cổ mảnh khảnh, đuôi có lông dài, nhìn cũng không quá xấu xí.
Sau này, nàng học được thuật huyễn hóa hình người ở La Sát, thế là nàng có ba loại hình thái, nàng cảm thấy rất thỏa mãn.
***
Gần đây người dân ở ngoại ô thành Trường An đồn rằng: Có một vị khách hành hương mang dung mạo và phong thái của một hồng nhan họa thủy mới đến chùa Bàn Nhược. Sư trụ trì đã sai đệ tử mình vừa ý nhất – tiểu sư phụ Trúc Hàn giảng kinh cho nàng nghe.
Ở trong phòng thiền, mặt mày nhân vật chính tràn ngập ý cười, dịu dàng thầm thì còn gương mặt tiểu sư phụ thì âm trầm, mày hơi nhíu lại.
“Sao ngươi lại đến nữa?” Chàng chất vấn.
A Âm không nóng vội, đẩy hộp gỗ đàn hương đựng tro cốt con thỏ đang cầm trong tay về phía chàng.
“Sư phụ chàng đã siêu độ cho nó, ông ấy bảo chàng đặt lên trên kệ.”
Trúc Hàn nhẫn nhịn nhận lấy, quay người giơ tay đặt chiếc hộp lên chỗ cao trên giá đỡ. Tăng phục màu xanh rộng thùng thình, nhìn từ phía sau A Âm không thấy rõ eo chàng, không biết ẩn đằng sau lớp quần áo là thân hình thế nào. Có lẽ chàng không quá gầy, eo thon mông nở.
Chàng ngoái đầu, ánh mắt nghiêm túc: “Trong này thật sự có tro cốt của con thỏ?”
Sáng sớm hôm nay nàng lên núi dâng hương, kể rằng có vị tiểu sư phụ Trúc Hàn ở trong chùa từng cứu thỏ cưng của nàng. Bây giờ tuổi thọ của con thỏ đã hết nên nàng đến đây cầu trụ trì siêu độ, đồng thời nghe tiểu sư phụ giảng kinh cho nó.
A Âm cười nhạt, nhưng dù nàng bộc lộ vẻ dịu dàng thì Trúc Hàn vẫn cảm nhận nét quyến rũ tỏa ra nơi nàng.
“Đúng là thật. Ta tuyệt đối không lừa chàng, Quan Trừng.”
Dù trong trường hợp nào thì ánh mắt cũng không thể lừa người. Muốn kiểm tra xem người khác có nói dối không chỉ cần nhìn thẳng vào đôi mắt, nếu người đó có vẻ né tránh thì tức là không trong sạch.
Nhưng nàng không thế.
Chàng tin.
“Trúc Hàn.” Chàng có sửa lại cũng vô dụng, cuối cùng nàng vẫn không nghe.
Chàng ngồi tĩnh tọa trên bồ đoàn, khẽ cúi đầu tránh ánh mắt của nàng, bình tĩnh hỏi: “Thí chủ muốn nghe loại kinh pháp nào?”
A Âm bật cười nhích người đến gần, nằm sấp trên người chàng, hô hấp giao thoa, nàng tham lam ngửi mùi đàn hương trên người chàng, “Quan Trừng ngốc nghếch, chàng thật sự nghĩ ta đến nghe Phật pháp à? Ta ấy à, ta đến để gặp chàng.”
Chàng bối rối né tránh, bây giờ tất cả cửa sổ đều mở toang, trong chùa kẻ đến người đi, nói không chừng bất cứ lúc nào cũng có người đi ngang qua, nhìn thấy cảnh tượng kiều diễm ở trong phòng.
“Thí chủ, mời về cho.” Giọng chàng dứt khoát.
Nàng lặng lẽ quay về ngồi trên bồ đoàn của mình, gương mặt hiện lên vẻ đau lòng, rầu rĩ mở miệng: “Ai, lại đuổi ta về. Lần này ta còn chưa chạm vào người chàng đã trở về, thế chẳng phải rất khó chịu sao?”
Trúc Hàn thấy khó kiểu, lời nàng nói chẳng có chút đạo lý nào cả. Chàng đứng dậy, quay lưng về phía nàng bảo: “Người xuất gia phải tuân theo giới luật, thí chủ đừng trêu chọc ta nữa.”
A Âm khó hiểu, “Ta biết chàng phải tuân theo giới luật nhưng sư huynh và sư thúc của chàng đều chè chén nhậu nhẹt ở quán rượu của ta, thế không phải là phá giới rồi sao? Nếu chàng muốn làm hòa thượng thì vui vẻ với ta trước rồi sau đó thụ giới lại là được, cũng đâu phải chuyện gì to tát.”
Tiểu hòa thượng nghe nàng nói vậy thì mặt mày đỏ bừng, “Ai muốn vui vẻ với ngươi?”
Sau khi phẫn nộ phản bác theo bản năng, chàng giải thích: “Sư huynh sư thúc phá giới là bởi vì trong lòng họ không có Phật. Trong lòng ta có Phật, được Phật Tổ quan tâm, người đời đều có thể tổn thương Phật, duy chỉ có ta là không thể.”
Chàng đã gần đi đến giới hạn, chỉ cảm thấy ngày thường sư phụ dạy chàng phải bình tâm tĩnh khí nhưng lúc này lại chẳng có hiệu quả. Trong lòng thiếu niên hừng hực lửa giận, giống như một