Lưỡi đao sắc bén kề sát bên yết hầu, đại vu y không dám thở mạnh. Tạ Tùng Tuyển nói: “Ngài là người của đại quân Bắc Khương, Tuyết
Lộc là cố hương của ngài, ngài hãy nhớ lại xem lần trước Tuyết Lộc bại dưới tay Tát Liệt thế nào.”
Đại vu y đáp: “Đừng tưởng ta không biết chuyện tiểu tử Lương Quốc nhà ngươi vì Tát Liệt hiến kế.”
“Ta chỉ vì tìm đường sống cho mình, nhưng phụ tử Chử Tô Lặc dã tâm bừng bừng, vì tranh quyền mà không tiếc trọng dụng tướng lĩnh của địch quốc.” Tạ Tùng Tuyển nói tiếp: “Hôm nay vì hắn giải hận mà đồ sát binh sĩ Tuyết Lộc, ngày sau ai dám bảo đảm hắn sẽ không tạo phản đoạt ngôi?”
Đại vu y nheo mắt nói: “Nhóc Lương Quốc nhà ngươi cũng xảo quyệt lắm, ta biết ngươi đang muốn ly gián.”
Binh sĩ Thương Lang vừa đúng lúc tuần tra xung quanh, nghe loáng thoáng thấy tiếng có người đang nói chuyện trong lều. Nhưng bọn họ ai cũng biết đại vu y thích yên lặng, sống một mình, chỉ muốn chăm chút cho thảo dược của ông.
Những binh sĩ đó sinh nghi, nhưng cũng không dám thất kính với đại vu y nên không xông vào, chỉ đứng bên ngoài cung kính hỏi: “Đại vu y, ngài đã ngủ chưa?”
Tạ Tùng Tuyển và đám binh sĩ chỉ cách một lớp vải bạc, lòng bàn tay toát mồ hôi lạnh, hắn đang đánh một canh bạc rất to, cược rằng đại vu y là người duy nhất có thể giúp đỡ hắn, nếu cược sai, chờ đợi hắn dĩ nhiên là tu la địa ngục, nhưng hắn phải cược tất, liều mạng một phen.
Cho dù không muốn, nhưng Tạ Tùng Tuyển vẫn phải nói ra thân thế thật sự của mình, lấy đó làm bảo đảm với đại vu y. Hắn nói: “Ngài đã biết thân phận của ta, nếu ngài cứu ta, nếu sau này Thương Lang làm khó Tuyết Lộc, Đại Lương nhất định sẽ gửi binh tiếp viện cho đại quân Bảo Nhan Đồ Hải. Lời của Tạ Tùng Tuyển ta đã định, tứ mã nan truy.”
Đại vu y vẫn còn do dự, binh sĩ bên ngoài đã gấp gáp xông vào: “Đại vu y, chúng ta vào đây.”
Nói xong, bọn họ vén lều định bước vào, trong gang tấc, đại vu y phất tay dập tắt nến, xoay người ra khỏi lều, vừa lúc ngăn lại đám binh sĩ kia.
Giọng của ông trầm trầm: “Ta đã từng nói không cho phép người làm phiền ta luyện dược.”
Binh sĩ Thương Lang thấy không có chuyện gì, vội vàng cúi người tạ lỗi: “Thất lễ, đại vu y, có một tên nô lệ vừa trốn khỏi quân doanh, thiếu chủ đã hạ lệnh cho bọn ta phải cảnh giác hơn.”
Đại vu y nói: “Ta không sao, cũng không biết nô lệ gì, đừng đến đây làm phiền ta nữa.”
“Vâng.” Bọn họ lập tức rời khỏi.
Trong đêm tối, Tạ Tùng Tuyển nắm chặt dao găm, thận trọng trốn sau bức bình phong gỗ.
Đại vu y châm nến, chậm rãi bước đến bên bồn nước rửa tay, một lúc sau mới thấp giọng nói: “Lời hứa của một đứa con rơi không được thừa nhận như ngươi không có phân lượng.”
Tiếng bước chân bên ngoài càng lúc càng xa, Tạ Tùng Tuyển biết mình đã thắng cược, lần đầu tiên cảm nhận được cảm giác vui mừng vì sống sót.
Hắn nhẹ nhàng thở ra một hơi, buông dao xuống, đáp lời đại vu y: “Nhưng ngài đã đồng ý rồi.”
“Bởi vì ngươi là người duy nhất sống qua ba ngày dưới thủ đoạn của ta.” Đại vu y lau tay, khuôn mặt già nua cũng không che được sự tinh anh trong đôi mắt, ông nhìn thằng Tạ Tùng Tuyển: “Ngoài thân phận là một kẻ hành hình, ta còn là một đại phu.”
Hoặc là phụ tử Chử Tô Lặc quá mức tàn ác, ngay cả đại vu y cũng không chấp nhận cách hành sự của bọn họ; hoặc là đại vu y lo lắng cho tương lai của Bắc Khương; hoặc là sự khâm phục ông dành cho Tạ Tùng Tuyển; hoặc là, ông là một đại phu, cứu người là thiên chức của ông…
Bất luận là nguyên nhân gì, kẻ cùng đường mạt lộ là Tạ Tùng Tuyển tìm được đường sống, đại vu y giấu hắn trong quân doanh, nơi nguy hiểm nhất cũng là nơi an toàn nhất.
Tạ Tùng Tuyển tựa như bốc hơi mà biết mất khỏi Thương Lang, Tát Liệt tức điên, liền lấy lý do binh lính bỏ trốn thiếp lập trạm gác, vòng vây trùng trùng, lục soát mọi nơi.
Muốn rời khỏi Bắc Khương lúc này không phải là chuyện dễ.
“Muốn đi, chỉ có một biện pháp.” Đại vu y lấy túi kim châm từ trong rương thuốc ra, chậm rãi mở lớp vải bên ngoài, lấy ra một loạt các loại công cụ hình dáng kỳ quái: “Huyệt vị, xương cốt, da thịt trên cơ thể người đều có thể thay đổi, ta có thể tạo ra một khuôn mặt khác cho ngươi giúp ngươi trốn được tra khảo, đưa ngươi rời khỏi Thương Lang. Sau khi Bắc Khương và Lương Quốc nghị hòa, thương đội của trung nguyên thường đến Bắc Khương nhập thuốc, đến lúc đó ngươi có thể theo bọn họ rời khỏi.”
Tạ Tùng Tuyển chỉ nghe qua thuật dịch dung trong sách truyện thần thoại Bắc Khương, không ngờ đại vu y thật sự có bản lĩnh này, hắn đồng ý.
Đại vu y nói: “Đừng vui mừng quá sớm, cách này cửu tử nhất sinh. Tạ Tùng Tuyển, lúc ở trong ngục ngươi nếm thử những cây kim này, cũng uống qua mấy thang thuốc. Nhưng dịch dung còn đau đớn hơn những thứ đó gấp trăm lần, đã rất nhiều người bỏ mạng giữa chừng, cũng có người nửa đường bị dày vò phát điên.”
Tạ Tùng Tuyển không để ý đến mấy chuyện này, chỉ chần chờ hỏi: “Sẽ quên hết quá khứ sao? Lúc ở trong ngục ta đã quên mất một số chuyện.”
“Quên đi đau khổ nhiều khi lại là chuyện tốt.”
Tạ Tùng Tuyển trầm mặc lắc đầu: “Ta sẽ không quên đâu.”
Đáy mắt đại vu y có một sự trầm lắng kỳ lạ, ông nó tiếp: “Trừ những chuyện này, nếu ngươi may mắn sống sót, ngươi đã không còn là Đại Lương Hoàng tử Tạ Tùng Tuyển, trên thế giới này chẳng còn ai vướng bận cùng ngươi, cũng có thể sẽ không ai tin lời ngươi, ngươi nên suy nghĩ cẩn thận.”
Tạ Tùng Tuyển nắm chặt bên eo, chậm rãi lần theo hoa văn của nó, cười khổ: “Ta còn gì để sợ nữa chứ.”
Đây đã là đường sống cuối cùng của hắn.
Chỉ có sống sót mới có thể thực hiện lời hứa, hoàn thành di nguyện của Triệu Quân, báo thù cho Bùi Trường Hoài, phải trở lại kinh đô, cho dù chẳng biết có ai còn trông đợi hắn không.
Trừ đại
vu y, chẳng còn ai biết Tạ Tùng Tuyển trải qua những ngày tháng ấy như thế nào.
Binh sĩ trong quân doanh Thương Lang ngày ngày đều nghe thấy tiếng la hét thê lương trong lều của đại vu y, tiếng hét như lệ quỷ kêu gào làm
người ta run rẩy.
Bọn họ cũng từng báo chuyện này cho Bảo Nhan Tát Liệt, nhưng lúc đó hắn vẫn còn đau đầu chuyện lùng bắt Tạ Tùng Tuyển, vì trước đây đã tuyên bố rằng Tạ Tùng Tuyển đã ch/ết nên cũng không thể tìm kiếm rầm rộ.
Bảo Nhan Tát Liệt nghĩ nát óc cũng không hiểu tại sao Tạ Tùng Tuyển có thể trốn thoát, hắn lo sợ Tạ Tùng Tuyển thật sự có thể trốn về Lương Quốc, nói hết những đau đớn mà hắn phải chịu cho Hoàng đế Lương Quốc, ngày đêm ăn không ngon ngủ không yên, còn hơi sức đâu mà đi lo chuyện của Đại vu y?
Huống hồ hắn biết đại vu y này trước nay cổ quái quỷ dị, hiểu rõ dùng cổ thuật, từng luyện xác ch/ết thành thuốc, không ít lần bắt nô lệ thử thuốc, cho nên cũng không nghi ngờ gì.
Ba tháng sau.
Một nam nhân quần áo rách rưới cắm đầu chạy như điên trên thảo nguyên, đầu hắn đội chiếc đấu lạp cũ kỹ, dưới làn vải mỏng là khuôn mặt đầm đìa máu, tựa như ác quỷ bò lên từ địa ngục, cũng tựa như kẻ điên giữa nhân gian.
Ánh mắt kẻ đó rất hung ác, trong tay nắm chặt một chiếc dao găm rất đẹp, vội vã băng ngang bình nguyên, đôi khi hắn ngã nhào vào đống cát, lại nhanh chóng bò dậy hoảng loạn tiếp tục chạy như ma đuổi.
Đêm đến, giá lạnh buốt vây, hắn sẽ tựa vào một gốc cây đã ch/ết khô chợp mắt, trong miệng không ngừng thì thầm cái tên ai đó, cứ như muốn khắc ghi vào lòng.
Hắn vốn chẳng dám ngủ lại, nhưng lại vì mệt mỏi quá độ mà gục ngã, lúc tỉnh lại trước mắt đã là màn đêm, hắn lại đứng dậy tiếp tục lê thân, khập khiễng vài bước rồi rồi đột ngột khựng lại.
“Ta phải đi đâu?” Hắn chẳng biết mình nên hỏi ai.
Trên đỉnh đầu là ngân hà bao la, trước mặt là hoang mạc mênh mông, gió đêm rả rích bên tai, sao trời ngời ngời sáng.
Hắn khuỵu gối giữa vùng hoang, dưới vòm trời rộng lớn, kẻ tha hương quên mất đâu là chốn về.
Hắn mấp máy khóe môi khô nứt, giọng nói khàn khàn, theo thói quen gọi cái tên ấy: “Bùi… Bùi…”
Hồi lâu sau, hắn tự hỏi mình: “Ta đang… nói gì thế… người đó là ai…”
Gió rét buốt, cái lạnh thấu da thịt hắn, trong tim cũng có ngọn gió bắc đang thét gào, nơi đáy lòng trống trải đánh mất điều gì đó, những ký ức xưa cũ không từ mà biệt.
“Người đó là ai? Ta lại là ai?”
Chẳng biết làm sao, hắn chực rơi nước mắt, trăm vàn tuyệt vọng và mê mang bủa vây, dưới gầm trời thênh thang, hắn cuộn người, tựa như một tảng đá, lại tựa như hạt bụi trần.
Đến khi trời sáng hắn, vùng hoang vu ngân vang một hồi chuông dài, càng lúc càng đến gần.
Hai người cưỡi ngựa đen bước tới, trên roi ngựa treo một chiếc chuông, đinh đinh đong đong, là thứ thương đội dùng để trừ tà.
Hai người đó mặc quần áo chất phác, đều là người Lương Quốc.
Nam tử lớn tuổi hơn quan sát khuôn mặt quấn đầy băng vải của hắn, lòng sinh cảnh giác, nhưng vẻ mặt vẫn bình tĩnh, chậm rãi hỏi: “Ngươi là tàn binh Lương Quốc sao? Thương đội của huynh đệ ta được người khác nhờ đến đón ngươi, nghe nói ngươi muốn về Hoài Châu, cố hương của ta là Hoài Châu Xương Dương, ngươi có thể trở về cùng bọn ta.
Hắn ngẩng đầu, ánh mắt đầy phòng bị.
Thương đội không nhìn ra khuôn mặt của hắn, chỉ thấy đôi mắt đen láy của hắn rất đẹp, chỉ có điều ánh mắt ấy chỉ toàn sợ hãi và mê mang, không khỏi sinh ra lòng thương tiếc.
Nghĩ đến trận chiến vừa kết thúc không lâu, không ít người Lương Quốc bị cầm chân ở Bắc Khương, không thể về cố hương, khổ sở phiêu bạc trong loạn lạc.
Cũng may Hoàng đế hạ chỉ nghị hòa, trận chiến này sớm kết thúc, nếu không chẳng biết bao giờ mới có thể bình ổn sống tiếp.
Hai thương nhân thấp giọng ai thán, lấy bầu nước bên hông đưa cho hắn.
Hắn vẫn còn cảnh giác, không chịu nhận. Thương nhân bèn cầm lên uống một ngụm, lại lau sạch miệng bầu nước mới đưa lại cho hắn: “Uống đi, đều là người Lương Quốc, lại thêm tình đồng hương, chúng ta sẽ không hại ngươi.”
Thấy bọn họ không có ác ý, hắn cũng đã khát khô họng, cầm lấy bầu nước, nhanh chóng nốc cạn.
Đến khi hắn uống xong, thương nhân mới nói: “Quên mất, ta họ Lâm, tên Lâm Vệ Phúc, còn đây là đệ đệ ta, Vệ Phong.”
Lâm Vệ Phong có vẻ không thích nói chuyện, cho đến khi huynh trưởng nhắc tới tên mình mới gật đầu.
Lâm Vệ Phúc lại hỏi: “Nên xưng hô với các hạ thế nào?”
Hắn ngơ ngác hồi lâu, mới nhìn phong huyết thư trong ngực muốn gửi về cố hương, lại nhìn chữ khắc chưa thành hình trên dao găm, rất lâu sau mới đáp: “Triệu, Triệu Quân.”