Những ngày cuối tháng 11-1894.
Buổi tối thật buồn.
Holmes đang dùng kính lúp để cố đọc những gì còn sót lại của một câu văn viết trên da cừu, trong lúc tôi say mê đọc một cuốn chuyên luận về phẫu thuật.
Bên ngoài gió gào rú, mưa dông mạnh.
Tôi tới bên cửa số nhìn xuống đường phố vắng tanh.
Những ngọn đèn đường chiếu sáng một mặt đường bùn lầy.
Một chiếc xe ngựa chạy tới, làm nước văng tung toé.
Holmes đặt kính lúp xuống và gấp mảnh da cừu lại:- Thật may mắn là bọn mình không phải đi ra ngoài.
Tôi đã ngán cái trò tìm đoán này: thật tội nghiệp cho đôi mắt! Ồ, có chuyện gì thế?Nổi bật trên tiếng gió vù vù, tiếng móng ngựa đập đôm đốp dọc theo nhà rồi tiếng bánh xe ngừng lại, kêu cọt kẹt khi cọ vào vỉa hè.
Chiếu xe ngựa đậu lại trước nhà chúng tôi.- Ông này muốn gì đây? - Tôi kêu lên khi thấy một người đàn ông từ trên xe bước xuống.- Muốn gì à? Người đó muốn chúng ta.
Và chúng ta muốn những cái áo choàng ngoài, những khăn choàng cổ, những đôi giày cao su và tất cả những gì mà loài người đã phát minh ra để bảo vệ trước thời tiết xấu.
Hãy chạy xuống dưới, và mở cửa ra mau, bởi vì vào giờ này tất cả những người có đạo đức đều đi ngủ cả rồi!Khi ánh sáng ngọn đèn trong gian tiền sảnh chiếu rõ người khách, tôi nhận ra ngay đó là Stanley Hopkins, một thanh tra trẻ tuổi.- Ông ấy có nhà không? - Anh ta ném cho tôi câu hỏi khi bước vào.- Hãy lên đi! - Holmes trả lời từ phía trên - Chắc đêm nay anh không ấp ủ những ý đồ đen tối chống lại chúng tôi?Viên thanh tra leo vội lên cầu thang, từng bốn bậc một.
Nước trên áo mưa của anh ta chảy ròng ròng.
Tôi giúp anh ta cởi nó ra, trong lúc Holmes khơi cao ngọn lửa.- Hãy đến gần ngọn lửa mà sưởi ấm đôi chân.
Đây là một điếu xì-gà.
Bác sĩ ta sẽ sẵn lòng làm một chén thuốc, trong có nước sôi và một quả chanh.
Có chuyện gì quan trọng lắm nên luồng gió độc địa này mới thổi anh tới đây?- Ông đã đọc tin giờ chót của các báo chưa? Về vụ án Yoxley đó mà.- Anh nói đi!- Được.
Đó là bản tin vắn, đầy rẫy những sai lầm.
Chuyện đó xảy ra trong vùng Kent, cách Chatham 7 dặm và cách đường xe lửa 3 dặm.
Người ta báo cho tôi bằng điện tín vào lúc 3 giờ 15, tôi tới Yoxley Old Place vào hồi 5 giờ.
Tôi đã mở cuộc điều tra, rồi quay trở về Charing Cross bằng chuyến xe lửa cuối cùng và đi thẳng tới đây.- Vậy là anh chưa thấy rõ vụ này? - Holmes hỏi.- Đây là vụ rối rắm nhất trong tất cả những vụ mà tôi đã đảm trách.
Không có động cơ gây ra tội ác; có người bị chết, nhưng không sao hiểu được tại sao có người muốn giết anh ta?Holmes mồi một điếu xì-gà và ngồi nép vào trong ghế bành.- Chúng tôi nghe anh đây.- Cách đây vài năm, một người đứng tuổi, giáo sư Coram đến mua một căn nhà ở vùng quê Yoxley Old Place.
ông ta đau ốm, tàn tật, một nửa thời gian nằm liệt trên giường, nửa thời gian còn lại chống gậy đi quanh nhà.
ông được láng giềng yêu quý.
Họ thường tới thăm ông và coi ông như nhà thông thái.
Đám gia nhân gồm có người quản gia lớn tuổi, bà Marker, và người hầu gái Susan Tarlton.
Đó là hai phụ nữ trung hậu.Ông giáo sư viết một cuốn sách.
Năm vừa qua, ông thuê một thư ký.
Hai người đầu không làm được việc, người thứ ba là một thanh niên tốt nghiệp đại học, đã đáp ứng được những mong muốn của giáo sư.
Mỗi sáng, anh ghi chép lại những gì ông chủ đọc; và buổi chiều, anh đọc kỹ những câu trích dẫn có quan hệ với công việc ngày hôm sau.
Không thể nào tìm ra được một điều gì đó chống lại anh chàng Willoughby Smith này, hoặc là lúc anh ta hãy còn nhỏ, hoặc là lúc anh ta theo học ở đại học.
Tôi đã xem các bằng cấp và những lá thư tiến cử.
Anh ta luôn luôn là người trầm tĩnh, siêng năng, thật thà và đứng đắn.
Ấy thế mà anh đã bị giết sáng nay trong văn phòng của giáo sư và những tình huống đã chỉ dẫn một cách dứt khoát rằng đây là một vụ ám sát.Gió vẫn gào thét bên cửa sổ.
Chúng tôi ngồi sát gần ngọn cửa, trong lúc viên thanh tra khai triển câu chuyện.- Trong khắp nước Anh, chúng ta sẽ không gặp một ngôi nhà nào cách biệt và thoát ra khỏi những ảnh hưởng bên ngoài như căn nhà đó.
Nhiều tuần lễ đã qua mà không một người lạ nào vượt qua hàng rào sắt quanh nhà.
Ông giáo sư bị cuốn hút vào trong công việc Chàng thanh niên không quen biết ai trong lối xóm, nghĩa là anh ta sống y như ông chủ.
Hai người đàn bà không bị một mối quan hệ nào lôi họ ra khỏi nhà.
Người làm vườn là một quân nhân về hưu tên là Mortimer.
Ông ta không ở trong nhà, nhưng sống trong một căn nhà nhỏ ba gian ở đầu đằng kia khu vườn.
.Người hầu gái khai rằng, sáng nay, trong khoảng từ 11 đến 12 giờ, bà đang treo những tấm màn trong căn phòng ở trên cao, mé trước nhà.
Giáo sư còn ngủ.
Bà quản gia thì đang bận rộn tận cuối căn nhà.
Willoughby Smith đã đi tới phòng ngủ mà anh dùng như là văn phòng riêng.
Nhưng bà ta lại nghe tiếng bước chân anh đi ra, bước dọc theo hành lang và đi xuống văn phòng ở ngay mé dưới, nơi bà đang làm việc.
Bà không trông thấy anh, không nghe thấy tiếng cánh cửa văn phòng đóng lại, nhưng ít lâu sau, một tiếng kêu kinh hoàng đã vang lên trong căn phòng phía dưới.
Một tiếng thét chói tai và quá khác thường khiến cho bà không phân biệt được là tiếng của đàn ông hay đàn bà.
Cùng lúc đó có tiếng té ngã vang lên, làm rung chuyển cả ngôi nhà, rồi sau đó hoàn toàn im lặng.
Bà ta sững người, nhưng sau đó lấy lại can đảm và chạy xuống nhà dưới.
Cánh cửa văn phòng đóng kín.
Bà mở ra.
Anh chàng Willoughby Smith nằm sóng sượt dưới đất.
Thoạt tiên bà không thấy một vết thương nào; nhưng khi bà thử đỡ ông lên thì có máu chảy ở dưới cổ.
Vết thương thật nhỏ nhưng cái động mạch nhánh đã bị cắt đứt.
Hung khí là một con dao nhíp loại nhỏ, dùng để cắt xi gắn niêm phong, một loại dùi mà thỉnh thoảng người ta còn bắt gặp trong những căn phòng cổ xưa có cán bằng ngà và một cái lưỡi sắc.
Nó là một trong những vật dụng văn phòng của giáo sư.Thoạt đầu bà ta tưởng Willoughby Smith đã chết, nhưng khi bà lấy nước trong một cái bình rưới lên đầu anh thì anh mở mắt ra; anh thì thào: “Giáo sư! Chính là bà ta đó!”.
Nói xong, anh chết.
Bà hầu phòng quả quyết rằng chính tai bà nghe rõ câu nói đó.
Giữa lúc ấy, bà quản gia cũng tới nơi xảy ra tội ác.
Bà này đã để người hầu gái ở lại bên cạnh xác chết và bà vội vàng chạy lên phòng ông chủ để báo tin.
Ông giáo sư đang ở trong phòng, ngồi dậy, bị dao động một cách khủng khiếp.
Bà Marker làm chứng rằng giáo sư vẫn còn mặc quần áo ngủ và ông không thể mặc quần áo được, nếu không có sự phụ giúp của người làm vườn.
Ông giáo sư khai rằng ông đã nghe thấy tiếng kêu, nhưng ông không biết gì khác.
ông không thể nào giải thích được những lời nói sau cùng của người thư ký trẻ: “Giáo sư! Chính là bà ta đó!”.
Ông cho rằng đó là do tác dụng của sự mê sảng.
Ông tin rằng chàng thanh niên không có kẻ thù nào.
Giáo sư phái người làm vườn đi trình cảnh sát địa phương.Một lát sau, viên cảnh sát trưởng đã triệu tôi tới.
Không có cái gì bị dời chỗ.
Những mệnh lệnh nghiêm ngặt đã được ban ra để không cho một ai đi lại trên những lối đi trong vườn dẫn tới nhà.
Thưa ông Holmes, đây là cơ hội mơ ước để ông đem ứng dụng những lý thuyết của ông, nó tuyệt đối không thiếu một thứ gì…- Chỉ thiếu có ông Sherlock Holmes.
- Bạn tôi nói trong một nụ cười gần có phần chua chát - Được, chúng tôi xin nghe phần tiếp theo.
Vậy anh đã làm gì?- Trước lết, tôi mong ông liếc qua cái sơ đồ này.Anh ta mở bản phác họa và trải nó ra trên đầu gối Holmes.
Tôi đứng lên và quan sát nó qua bạn tôi.- Nó rất sơ sài.
Sau này ông sẽ tự mắt quan sát phần còn lại.
Giờ đây, điểm thứ nhất: Nếu kẻ sát nhân đã vào trong nhà, thì y đi qua lối nào? Chắc là đi qua lối vào trong vườn (A) và qua cánh cửa dành cho người giúp việc (B), từ đó đi thẳng tới văn phòng (C).
Tất cả mọi ngả đường khác đều đưa ra những khó khăn lớn.
Lối y bỏ trốn cũng được thực hiện qua ngả đó, bởi vì trên hai lối ra khác của căn phòng, một bị chặn bởi Susan đang chạy tới (D) và lối kia dẫn thẳng vào phòng của giáo sư).
Vậy là tôi chú tâm vào lối đi trong vườn, bị làm nhão bởi một cơn mưa.
Tôi không tìm thấy một dấu chân nào trên lối đi.Ngược lại, có ai đó đã men theo lối đi bằng cách bước trên cỏ khiến cho không để lại những dấu vết.
Tôi đã không thế tìm ra một dấu chân rõ ràng nào, nhưng cỏ bị rạp xuống: hẳn là cỏ bị bàn chân của kẻ sát nhân đạp lên, bởi vì người làm vườn cũng như hai bà già kia, không ai đi dạo trong vườn vào buổi sáng và còn ban đêm thì trời đã đố mưa.- Lối đi này dẫn tới đâu? - Holmes hỏi.- Tới con đường.- Chiều dài là bao nhiêu?- Gần 100 yard.- Ở cái chỗ mà lối đi đụng vào hàng rào, ắt hẳn anh thu thập được những dấu vết?- Ở đó, lối đi lại được lát đá.- Thế còn trên con đường, phía bên kia hàng rào?- Đúng là một vũng bùn.- Tốt.
Hãy trở lại với những dấu vết trên cỏ: chúng đi về hướng nào?- Không thể nói được.
Không có những đường viền.- Một bàn chân lớn hay một bàn chân nhỏ?- Không thể nào xác định được!Holmes thở dài, mất kiên nhẫn:- Vấn đề này còn khó hiểu hơn là đọc trên miếng da cừu! Thế rồi, anh đã làm gì?- Tôi biết chắc là có một ai đó từ bên ngoài đã vào trong nhà.
Sau đó tôi quan sát cái hành lang (F) có lót một tấm lác nếu đan bằng sợi dừa: không một dấu vết nào.
Cuộc khám xét đó đã đưa tôi vào ngay trong căn phòng.
Đồ đạc chính là một cái bàn lớn đặt trên hai chồng ngăn kéo được nói liền với nhau bằng một thứ như tủ buýp-phê.
Các ngăn kéo đều mở, cái tủ buýp-phê bi khoá.
Dường như những ngăn kéo không bao giờ đóng lại và chúng không chứa những đồ vật đáng giá nào.
Trong tủ buýp-phê có vài tờ giấy quan trọng, nhưng dường như người ta đã không đụng tới và ông giáo sư khai với tôi là không một giấy tờ nào bị mất cả.
Chắc chắn là không có vụ trộm nào xảy ra.Thi hài của chàng trai gần bên cái tủ.
Vết thương ở bên tay phải gần cổ và trổ từ sau ra trước; khó mà kết luận rằng đây là một vụ tự tử.- Ngoại trừ trường hợp mà anh ta bị ngã xuống trúng con dao.
- Holmes nói.- Rất đúng! Nhưng chúng tôi lại tìm thấy con dao ở cách thi hài khá xa, vậy là giả thiết đó không đứng vững.
Vả lại còn có những lời trăn trối của nạn nhân.
Và sau chót, đây là bằng chứng rất quan trọng mà người chết đã nắm chắc trong bàn tay phải co quắp lại.Stanley Hopkins rút từ trong túi ra một cái hộp nhỏ.
Anh ta mở rộng tờ giấy và trưng ra một cái kính kẹp mũi bằng vàng với hai mẩu dây bằng lụa đen đang đong đưa.
Anh nói thêm:- Willoughby Smith có một thị lực hoàn hảo! Vậy cái kính kẹp mũi này đã được giật ra từ trên mặt hoặc trên người của kẻ sát nhân.Holmes cầm lấy và quan sát nó chăm chú.
Anh đặt kính lên mũi, thử đọc, đi tới bên cửa sổ và nhìn xuống đường phố, đoạn anh gỡ nó ra và đặt dưới ánh đèn.
Sau cùng, anh bật ra một tiếng cười nhỏ, đến ngồi vào bàn và viết vài hàng trên một tờ giấy rồi dưa cho Stanley Hopkins.- Đây là cái mà tôi có thể làm cho anh.
Chúng ta sẽ thấy là nó có ích hay không.Viên thanh tra ngạc nhiên, cất cao giọng, đọc tờ giấy:“Người ta tìm kiếm một bà có dáng vẻ lịch thiệp, ăn vận thanh lịch.
Bà có cái mũi dày một cách dị thường và haisát gần hai bên mũi.
Bà có vầng trán nhăn, hai bờ vai đã còng.
Chắc chắn là trong những tháng gần đây bà đã đến hiệu kính ít nhất hai lần.
Vì những tiệm kính không nhiều lắm, ắt hẳn không khó khăn gì dể tìm ra dấu vết của bà”.Holmes cười trước cái vẻ ngơ ngác của Hopkins.
Anh nói:- Cặp kính kẹp mũi rất dễ cho ta suy diễn.
Về việc cái kính là của một phụ nữ, tôi suy diễn từ sự mảnh dẻ của cái kính và từ những lời nói sau cùng của nạn nhân.
Về điều dáng vẻ thanh tao và lịch thiệp: cái kính này làm bằng vàng, cho thấy chủ nó giầu sang, tất nhiên bà phải ăn mặc thanh lịch.
Hai cái kẹp của kính quá rộng, chứng tỏ rằng cái mũi của bà này rất nở ở dưới đáy.
Tôi có một khuôn mặt hẹp, dài, ấy thế mà tôi không thể nhìn vào chính giữa hoặc gần trung tâm những tròng mắt này.
Vậy thì đôi mắt của bả ta được đặt sát bên sống mũi.
Một phụ nữ mà thị lực đã bị suy giảm đến như thế suốt đời, thì chắc chắn có chăng nét đặc trưng về cơ thể hợp với thị lực đó, như là một vầng trán nhăn, và những bờ vai bị còng.- Đúng! Tôi theo dõi rất sát những suy diễn của anh, ngoại trừ một điều: làm thế nào mà anh biết bà ta đã hai lần đi tới tiệm kính? - Tôi hỏi.Holmes cầm cặp kính kẹp mũi trong bàn tay.- Những cái kẹp được viền bằng những vòng nhỏ xíu bằng bần, ngõ hầu làm dịu sức ép trên mũi.
Một trong những cái vòng đó bị phai mầu và hơi cũ, nhưng cái kia thì mới.
Vậy là một cái đã bị rơi và bà đã thay cái khác.
Theo ý tôi, cái vòng cũ hơn cũng không lâu tới quá vài ba tháng.
Và bởi chúng giống y như nhau, tôi suy luận ra rằng bà đó đã trở lại lần thứ hai ở cùng một nơi.- Ông thật tuyệt vời! - Hopkins kêu lên, miệng há hốc vì khâm phục - Tôi có trong tay tất cả những sự hiển nhiên đó mà tôi chẳng hề suy luận ra một điều nhỏ .- Bạn thân mến, bạn còn có điều gì khác để nói với chúng tôi không?- Không.
Ông cũng đã biết như tôi… Và có thể còn nhiều hơn tôi nữa.
Chúng tôi đã điều tra về sự có mặt có thể có của một người đàn ông hoặc một người đàn bà xa lạ; hoặc ở trên con hoặc ở tại nhà ga: không có kết quả! Điều làm tôi băn khoăn là sự thiếu những động cơ gây ra tội ác.- À! Chỗ đó, tôi không có khả năng giúp được anh.
Nhưng ngày mai, chúng ta gặp nhau tại hiện trường, được không?- Ta tới Yoxley Old Place từ 8 đến 9 giờ.- Chúng ta sẽ đáp chuyến tàu đó.
Này, Hopkins, cũng gần một giờ sáng rồi.
Cái trường kỷ kê trước lò sưởi thuộc quyền sử dụng của anh đó.Sáng hôm sau chúng tôi xuống tàu ở một ga xép cách Chatham vài cây số.
Thời gian thắng một con ngựa vào đôi càng xe độc mã đủ để chúng tôi quất một bữa điểm tâm xoàng xĩnh.
Khi tới Yoxley Old Place chúng tôi làm việc ngay.
Một cảnh sát viên đón chúng tôi ở hàng rào quanh vườn.- Thế nào, có gì mới không Wilson?- Không, thưa ông.- Người ta vẫn chưa báo gì về một người lạ trong xứ à?- Không, thưa ông.
Ở dưới ga, họ tin chắc là không có một người lạ nào đã tới hoặc đã đi.- Anh đã điều tra trong các quán ăn và các nhà trọ?- Tất cả mọi người đều theo đúng luật lệ với những lý do vắng mặt đều chấp nhận được và đã kiểm tra.- Từ đây đi Chatham không xa lắm.
Bất cứ ai cũng có thể xuống đó và đáp tàu mà chẳng bị ai để ý tới...!Đây là lối đi trong vườn mà tôi đã nói với ông, thưa ông Holmes- Ở phía nào có những dấu vết ở trên cỏ?- Qua đây! Trong cái dải chật hẹp giữa lối đi và những khoảng đất trồng hoa trong vườn.- Đúng, đúng! Có một ai đó đã đi qua ngả này.
Người đàn bà xa lạ của chúng ta hẳn đã bước đi rthận trọng, bởi vì phía này bà hẳn để lại một dấu vết trên lối đi và trên phía bên kia một dấu vết còn rõ hơn nữa, trên khoảng đất trồng hoa thật mềm, phải không?- Bà ta phải là người điềm tĩnh một cách khác thường.Bất thình lình Holmes tập trung tư tưởng.- Anh nói là bà ta đã đi ra qua ngả này?- Vâng, không có một lối đi nào khác.- Trên cái dải cỏ này à?- Chắc chắn rồi.- Hừm! Vậy đúng là một kỳ tích rất đáng chú ý… Rất đáng chú ý! Thôi! Chúng ta hãy đi xa hơn.
Cái cánh cửa vườn này thường được mở rộng, tôi đoán thế.
Vậy là bà khách chỉ có việc vào.
Vì nghĩ về một vụ ám sát không có trong đầu bà ta; nếu không, thì bà đã mang theo một vũ khí nào đó thay vì sử dụng con dao nhíp trên bàn giấy.
Bà ta đã đi trong hành lang, không để lại dấu vết khi đi qua trên cái chiếu dệt bằng sợi dừa.
Rồi thì bà ta tới trong văn phòng này… Bà ta đã ở nơi đây bao lâu?- Chừng 15 phút thôi.
Bà Marker khẳng định như vậy.- Người đàn bà xa lạ đi vào trong văn phòng này và làm gì? Bà ta đi tới cái tủ.
Tại sao? Không phải để tìm một cái gì đó trong những ngăn kéo.
Nếu trong ngăn kéo mà có một cái gì quan trọng thì ắt hẳn chúng đã được khóa lại.
Không, bà ta đã tìm một cái gì đó trong tủ buýp-phê bằng gỗ này.
Coi này, thế còn cái vết xước này, đây này.
Này Watson, hãy đánh cho tôi một que diêm.
Tại sao anh lại không nói với tôi về cái vết xước này, Hopkins?Cái vết mà Holmes quan sát bắt đầu từ mặt đồng hồ bên mé phải có khóa và nó kéo dài khoảng 4 inch trên nước véc-ni.- Tôi đã thấy nó.
Nhưng luôn luôn chúng ta thấy chung quanh một có khóa có những vết xước giống như vết này.
Vết này hoàn toàn mới… Rất mới.
Anh hãy nhìn xem chỗ bị cào xước này, màu đồng mới bóng làm sao.
Một vết xước cũ hẳn đã lâ màu của mặt có khóa.
Hãy dùng kính lúp của tôi mà coi.
Chúng ta nhận thấy lớp véc-ni ở chỗ này, giống như đất ở mỗi bên của một luống cày.
Bà Marker có ở đây không nhỉ?Một bà đứng tuổi, có nét mặt ủ ê, bước vào.- Sáng hôm qua bà có quét bụi cái bàn giấy này không?- Có.- Bà có để ý thấy cái vết xước này không?- Không, tôi không thấy nó.- Ai giữ chìa khoá tủ này?- Ông giáo sư gắn nó trong sợi dây đeo đồng hồ của ông.- Đó có phải là một cái chìa thông thường không?- Không, chìa khóa hiệu Chubb.- Tốt lắm bà Marker, bà có thể về.
Thế là chúng ta đã tiến được chút đỉnh.
Người nữ khách của chúng ta vào trong phòng, tiến lại gần bàn giấy, và mở ra hoặc thử tìm cách mở tủ ra.
Trong lúc vội vã rút cái chìa khoá ra, bà đã gây nên vết xước trên cánh cửa.
Willoughby Smith tóm lấy bà, nhưng bà quơ lấy món đồ đầu tiên nằm trong tầm tay, tình cờ lại là con dao nhíp, và đâm vào anh ta để anh buông bà ra.
Không ngờ cú đâm lại làm chết người.
Willoughby Smith gục xuống và bà bỏ trốn: có thể bà đã lấy được món đồ hoặc chưa lấy được.
Thế còn bà hầu phòng Susan có ở đấy không? Bà Susan ơi, có thể nào có ai đó lại có thể ra khỏi cửa này sau khi bà đã nghe thấy tiếng kêu không?- Không thể nào được.
Khi họ xuống cầu thang, tôi ắt hẳn đã trông thấy ai đó trong hành lang.
Hơn nữa, người ta đã không mở cửa ra, nếu mở cửa ra thì tôi đã nghe thấy rồi.- Thế là giải quyết dứt một điểm.
Không còn nghi ngờ chút nào về việc người đàn bà đó đã bỏ đi bằng cùng một con đường mà bà ta đã vào.
Cánh cửa dẫn thẳng tới phòng của giáo sư à? Không có lối nào qua ngả phòng của giáo sư sao- Không, thưa ông.- Vậy thì chúng ta hãy theo lối đó và tới làm quen với ông giáo sư.
Ồ, Hopkins! Đây là điều rất quan trọng: Hành lang dẫn vào phòng giáo sư cũng được trải chiếu đan bằng sợi dừa phải không?- Phải, nhưng có gì là quan trọng.- Tôi thấy chi tiết đó rất là đáng chú ý.
Anh hãy vào và giới thiệu tôi.Đằng cuối của dãy hành lang có vài bậc thềm dẫn đến một cánh cửa.
Người hướng dẫn chúng tôi gõ cửa, rồi chúng tôi đẩy nhau vào trong phòng của ông giáo sư.Đây là một căn phòng rất lớn, sách chất đầy trên các kệ và nằm chồng đống trong tất cả mọi xó góc, hoặc xếp chồng dưới những tầng giá dọc theo căn phòng.
Cái giường kê chính giữa.
Chủ nhà ngồi dựa lên những cái gối.
Một bộ mặt trơ xương, nhìn nghiêng như chim đại bàng hướng về chúng tôi, cặp mắt đen sắc sảo nép mình trong những hốc mắt sâu và được che chở bởi đôi lông mày rậm sệ xuống.
Mái tóc và bộ râu ông đều bạc phơ như tuyết, chỉ khác là râu chung quanh miệng bị vàng khè một cách kỳ lạ.
Một điếu thuốc lá đang tàn dần giữa cái mớ lông trắng đó và không khí trong phòng thật ngột ngạt vì khói thuốc.
Ông chìa một bàn tay ra bắt tay Holmes: những ngón tay ông cũng bám đầy chất nicotine.- Ông hút thuốc chứ, thưa ông Holmes? - ông nói bằng một thứ tiếng Anh không chê vào đâu được dẫu rằng có ẩn tàng một âm tiết xa lạ - Tôi xin mời ông hút một điếu.
Còn ông, thưa ông? Thuốc hút và công việc, đó là tất cả những gì còn nơi tôi.Holmes đã mồi điếu thuốc và anh ném những tia nhìn lén qua khắp căn phòng.- Thuốc hút và công việc của tôi, nhưng giờ đây chỉ còn lại có thuốc hút.
Than ôi, sự đứt đoạn mới nguy hại làm sao! Nào ai có thể ngờ một tai họa như vậy? Một thanh niên xứng đáng được quý mến đến thế! Tôi đoán chắc với ông là chỉ sau vài tháng khởi công, anh ấy đã trở thành một cộng sự viên đáng phục.
Ông nghĩ sao về chuyện này- Tôi chưa nghĩ gì.- Tôi sẽ mang ơn ông rất nhiều, nếu như ông làm sáng tỏ được vụ này.
Với một người tàn phế ham chuộng sách như tôi, vụ này làm tôi bị tê liệt luôn: tôi tin rằng tôi đã bị mất ngay cả đến năng lực suy nghĩ.
Nhưng ông là chuyên gia phá án những vụ bí mật, ông có khả năng giữ được thế quân bình trong bất kỳ tình huống nào.
Chúng tôi thật may mắn có ông ở gần bên!Trong lúc ông giáo sư nói, Holmes đi đi lại trong một phần căn phòng.
Tôi nhận thấy anh hút thuốc nhanh chóng khác thường.- Đây là một vố quá nặng nề! - ông nói tiếp - Đây là tác phẩm lớn của đời tôi, cái chồng giấy mà ông trông thấy xếp trên mặt bàn cạnh đó, tôi đã phân tích những tài liệu tìm thấy trong các tu viện giáo phái Coptic ở Syrie và ở Ai Cập; tác phẩm của tôi sẽ làm đảo lộn các nền móng của tôn giáo đã được phát hiện.
Giờ đây, xét vì sức khoẻ suy nhược và sự mất mát người cộng sự, tôi tự hỏi không biết rồi ra tôi có thể hoàn tất được nó hay chăng.
Chúa ơi, ông Holmes, thế là ông hút thuốc còn nhiều hơn tôi nữa?- Tôi là một người sành điệu! - Holmes nói, khi lấy một điếu thuốc thứ tư trong hộp và nối vào cái mẩu còn cháy của điếu thuốc trước - Thưa giáo sư, tôi tin rằng vào giờ xảy ra tội ác, ông đang nằm trên giường và rằng ông không biết gì cả.
Tôi chỉ muốn nêu ra với ông một câu hỏi: theo ý ông, người thanh niên đã muốn nói gì trước khi trút hơi thở cuối cùng qua câu: Giáo sư...!Chính là bà ta đó.Ông giáo sư lắc đầu.- Susan là một người đàn bà quê mùa và ông thừa biết sự ngốc nghếch của loại người đó.
Tôi nghĩ rằng trong cơn mê sảng, anh chàng tội nghiệp đã thì thầm vài từ rời rạc và rằng chị ta đã dựa vào đó mà tạo