Ba tuần trước, ở một nơi nào đó nằm giữa sa mạc Tháp Khắc Lạp Mã Can.
Tháp Khắc Lạp Mã Can, là một trong những nơi khắc nghiệt nhất trên thế giới, cũng là nơi huyền bí bậc nhất phương Đông tự cổ chí kim.
Ngay từ cái tên của nó cũng đã đủ cho người ta thấy được sự chết chóc của sa mạc này.
Tháp Khắc Lạp Mã Can, vốn dĩ trong tiếng Ba Tư cổ đại có nghĩa là "Vùng đất bị ruồng bỏ", thế nhưng trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nơi này ngày nay được người đời nhớ đến với cái tên "Vùng đất một đi không trở lại".
Cố nhiên, dù tên gọi của nó có bị xê dịch theo thời gian, thế nhưng bản chất của Tháp Khắc Lạp Mã Can vẫn không có gì thay đổi.
Nó vẫn là một hoang mạc khô cằn, trải dài hàng ngàn dặm, chắn ngang con đường Đông - Tây cổ xưa.
Tuy rằng sự khắc nghiệt của vùng đất này khiến cho bất kỳ ai đứng trước nó cũng phải sợ hãi, thế nhưng nơi này không phải là không có người sinh sống.
Những thành thị cổ mọc lên bên trên các ốc đảo phía trong Tháp Khắc Lạp Mã Can, từ xưa tới nay luôn luôn nhộn nhịp.
Các thương nhân, đoàn buôn tìm kiếm khát vọng tiền tài trên Con đường tơ lụa huyền thoại, đã góp phần tạo nên những khu vực đông đúc và sầm uất bên trong hoang mạc này.
Những con người ấy đến rồi đi, không chỉ để lại những dấu chân trải dài trên cát, mà mỗi người trong số họ còn đặt một viên gạch nền móng, kiến tạo nên những nền văn minh cổ đại rực rỡ của cả một phiến thổ địa cằn cỗi hoang sơ này.
Nền văn minh sớm nhất được tìm thấy ở Tháp Khắc Lạp Mã Can, và cũng là chủ nhân chân chính của vùng đại mạc, không ai khác chính là người Thổ Hỏa La - những người đã đặt chân tới các ốc đảo ven hoang mạc từ hơn bốn ngàn năm trước.
Theo dòng thời gian dài dằng dặc, người Thổ Hỏa La phát triển, thịnh vượng rồi lụi tàn.
Thẳng cho tới một ngàn năm trước, những người nói tiếng Thổ Hỏa La cuối cùng nằm xuống với cát bụi, nhường chỗ cho những thế lực mới - người Đột Quyết.
Ngày nay, người Thổ Hỏa La có lẽ chỉ còn tồn tại bên trong những cuốn sách lịch sử, hoặc những di chỉ khảo cổ ít ỏi còn sót lại.
Sự tồn tại của họ, mãi mãi là một bí ẩn không có lời giải của nhân loại, bởi lẽ tất cả những gì người ta được biết về người Thổ Hỏa La đều là sự suy đoán của các sử gia dựa trên những phế tích cổ còn sót lại đã được tìm thấy.
Tuy nhiên ở bên trong đại mạc vô cùng vô tận này, vẫn luôn luôn ẩn chứa những bí mật khiến cho người ta không thể nào ngờ tới được.
Giống như nơi đây, trong một hang động dưới chân một ngọn núi không tên, lọt thỏm giữa muôn vàn ngọn núi không tên khác.
Chẳng ai biết được rằng phía bên trong khe đá tưởng chừng như hoang phế, được tạo ra bởi gió và cát ấy, lại tồn tại những thứ vốn chỉ nên xuất hiện trong truyền thuyết.
Rắc...
Rắc...!
Cánh cửa đá chầm chậm mở ra, giống như thể đang mở ra con đường dẫn đến một thế giới mới, tách biệt hoàn toàn với cát bụi bên ngoài.
Ba thân ảnh tiến vào bên trong hang động, tiếng giày của họ đạp xuống nền đá vang lên từng tiếng lộp bộp.
Những âm thanh này vọng đi vọng lại nhiều lần, nhỏ dần nhỏ dần, rồi cuối cùng biến mất không chút tăm hơi.
Cả ba người đều đang trùm khăn kín mít, cho nên khó có thể quan sát được biểu cảm trên khuôn mặt bọn họ lúc này.
Không gian bên trong động so với tưởng tượng của họ thì lớn hơn gấp nhiều lần.
Trên vách hang, hàng trăm hàng ngàn ngọn nến đang cháy lập lòe, soi rọi từng bức bích họa được tô vẽ khắp nơi.
Tất cả những bức tranh này đều vô cùng sống động, mỗi một phần nhỏ trong đó đều mang theo nội dung của riêng mình.
Chúng tập hợp lại với nhau, như thể đang kể lại câu chuyện rất rất dài, về một thế giới mà ở nơi đó con người được Sáng Thế Chủ che chở, được thần linh ban phước và có được cuộc sống vĩnh hằng.
Những con người nhỏ bé đó toàn tâm toàn ý mà ca ngợi Sáng Thế Chủ, thờ phụng thần linh, tuân theo những lễ nghi, giáo pháp mà đấng tối cao đặt ra, thừa hưởng những thành quả mà các bậc bề trên tặng.
Họ không ngừng miệt mài gọt giũa bản thân tới mức hoàn hảo không tì vết.
Họ không ngừng hành thiện, không ngừng hướng tới Sáng Thế Chủ mà hết lòng tôn phục, mãi cho tới khi bản thân đã đã đạt tới cảnh giới đắc đạo.
Có người trở thành thánh nhân, dẫn dắt cho hàng trăm ngàn người khác tu tập, thấu hiểu lễ pháp.
Lại có người trở thành thần linh, được hưởng sự thờ phụng đời đời kiếp kiếp của nhân loại.
Thế nhưng, mặc dù con người trong cõi ấy có thể sống cuộc đời hoan lạc hàng ngàn, hàng vạn năm, có thể không ngừng thoát khỏi cõi trần, thì chung quy lại tất cả mọi thứ vẫn sẽ có điểm kết thúc.
Vòm trời sụp đổ, Sáng Thế Chủ cũng theo đó mà hóa thành cát bụi.
Những sự xấu xa, độc ác, bi ai, khổ nạn...
vốn chưa từng tồn tại trong thế giới này, thì bây giờ lần lượt xuất hiện.
Chúng như nọc độc của loài rắn, thẩm thấu vào những nạn nhân vô tình chạm phải, thấm tới tận xương cốt của họ, để họ phải đọa lạc trong đau đớn.
Thời kỳ đó kéo dài tới một ngàn năm kế tiếp.
Mặc dù trong suốt khoảng thời gian một ngàn năm dài đằng đẵng ấy vẫn còn tồn tại thần linh, thánh nhân ra sức duy trì giáo pháp, thế nhưng những người tu thành chính quả càng ngày càng ít dần, mà những kẻ rơi vào khổ nạn tới mức không thể quay đầu lại càng ngày càng nhiều thêm.
Thần linh có khác biệt, thánh nhân có phân chia, trải qua một ngàn năm này, con người không còn là những hạt mầm của đức Sáng Thế Chủ nữa, mà đã trở thành những môn đồ của các vị thần linh, thánh nhân.
Mọi thứ, đã không thể quy về một mối, không còn thi hành theo một trật tự như trước kia.
Ngàn năm sau, thần linh vẫn lạc.
Ngàn năm sau, thánh nhân tọa hóa.
Giáo pháp của Sáng Thế Chủ vẫn tồn tại, thế nhưng chúng chỉ còn xuất hiện trong lời nói của chúng sinh, mà không phải trong tâm bọn họ.
Không ai hướng tới, không ai tu tập, tất cả đều cho mình là đúng, dùng những lời Giáo pháp trên chót lưỡi đầu môi để công kích lẫn nhau, đả phá lẫn nhau.
Không còn Sáng Thế Chủ, không còn thần linh, không còn thánh nhân.
Con người cũng theo đó mà không còn ai có thể đắc đạo, tất cả đều rơi vào khổ hải vô biên, mãi mãi không thể giải thoát.
A Cẩu mơ màng nhìn theo từng bức bích họa, mãi cho tới góc tận cùng của hang động.
Ở đó, hắn thấy được những hình ảnh cuối cùng của cả câu chuyện này.
Đó là một người không rõ nam nữ, không rõ già trẻ, thậm chí ngay của khuôn mặt cũng không rõ ràng.
Chỉ biết trên tay hắn đang cầm một mảnh vụn xanh biếc, mà từ trong mảnh vụn đó có thể thấy được một góc nhỏ của Sáng Thế Chủ vĩ đại.
Hắn đem mảnh vụn đó, dùng hết sức mình gắn lên vòm trời trên cao kia, từng chút từng chút một.
Vòm trời trống rỗng dần được lấp đầy, hình ảnh của Sáng Thế Chủ cũng theo đó mà hiện ra ngày một rõ ràng hơn...
"Có muốn biết người đó rốt cuộc là ai không?"
Một âm thanh già nua vang lên, phá tan sự im ắng bên trong hang động lúc này.
A Cẩu, A Miêu cùng với vị tư tế dẫn đường cho họ đều không tự chủ được mà hướng tới nơi phát ra âm thanh kia.
Người vừa nói những lời đó, không ai khác chính là một ông lão đang quay lưng về phía họ mà quỳ trước bức tượng Sáng Thế Chủ.
Ông lão này giơ hai bàn tay lên cao, trong miệng lẩm nhẩm những lời tối nghĩa.
Mặc dù trên người ông ta đang vận một bộ áo choàng vải thô màu đỏ gạch rộng thùng thình, thế nhưng bấy nhiêu đó vẫn là không đủ để che giấu đi vẻ còm cõi, gầy mòn của chủ nhân thân thể này.
Mái tóc ông lão bạc trắng, lưa thưa dài tới qua vai, tùy ý xõa tung ra chứ không cột lại.
Da dẻ trên bàn tay lão nhăn nheo, những ngón tay gầy gò mà chai sạn, nổi đầy gân xanh giống như những con giun đang tùy ý bò dưới da vậy.
Không biết đã trải qua bao nhiêu thời gian, nhưng ba người bọn họ chỉ biết đứng lặng im nhìn ông lão, không dám mở miệng nói một lời nào.
Bất chợt, ông lão hạ đôi tay gầy guộc xuống, quay đầu lại phía sau, hướng đôi hốc mắt trống rỗng về phía A Cẩu, miệng lặp lại câu hỏi khi nãy:
"Có muốn biết người đó rốt cuộc là ai không?"
Tư tế đứng bên cạnh A Cẩu hơi đẩy đẩy vai, ý bảo hắn mau mau trả lời.
A Cẩu nuốt nước bọt một cái, giọng hơi run:
"Là...
Là ai...?"
Ông lão chậm rãi đứng dậy, phủi phủi bụi bặm đang dính trên áo choàng, sau đó mới quay người lại đáp:
"Là ta..."
Còn chưa đợi ba người kịp phản ứng gì, ông ta lại tiếp tục:
"Mà cũng là ngươi..."
A Cẩu kinh ngạc há hốc mồm, lắp bắp:
"Sao...
Sao có thể là ta...
Sao có thể...?"
Hai con mắt của ông lão kia đã