Vườn viên Minh bị Ba Hạ Lễ đốt cháy rụi… Trong số Tứ xuân, ta có thể nói Mẫu Đơn Xuân là người tốt phúc nhất như hồi trên đã kể.
Còn ba nàng Xuân kia, cuộc đời ra sao?
Trước hết ta kể Hải Đường Xuân.
Hải Đường Xuân từ khi bị đưa vào cung, tưởng nhớ đến người yêu cũ là Kim Cung Thiềm ngày đêm không dứt, nhiều khi quên cả ngủ, bỏ cả ăn.
Hàm Phong hoàng đế quả đã đem hết lòng sủng ái đối với nàng nhưng mối tình vương giả đó đã không an ủi được tâm hồn của một con người chỉ sống được nhờ tình.
Bởi thế chưa đầy một năm trong cung vàng điện ngọc, nàng quá buồn rầu mà chết.
Dù trong tam cung lục viện có hàng ngàn người đẹp nhưng cái chết của Hải Đường Xuân quả đã để lại cho Hàm Phong hoàng đế một nỗi buồn thấm thía.
Đến nàng Xuân thứ ba: đó là Hạnh Hoa Xuân.
Có thể nói rằng Hạnh Hoa Xuân là người đã được hoàng đế cưng yêu lâu nhất và cũng nhờ đó dành dụm được nhiều tiền hơn cả mọi người.
Tuy giàu nhất nhưng nàng lại cô độc nhất.
Trong cung nàng chẳng giao du với một ai.
Bất luận kẻ nào, hễ có ý nhờ nàng tâu giùm hoàng đế, y như phải có tiền mới được không tiền là không xong.
Do đó, trong cung không ai là không giận ghét nàng.
Số tiền dành dụm của Hạnh Hoa Xuân càng ngày càng nhiều.
Nàng đã có tới hai mươi vạn lạng bạc.
Nàng gởi ra ngoài nhờ bà chủ mẫu cho vay lãi kiếm lời, món thì năm vạn, món thì ba vạn.
Tiền lời thu được, nàng đều đưa cho tên thái giám tổng quản, đem gởi lấy lãi.
Đó mới là tiền.
Hạnh Hoa Xuân còn có nhiều vàng nữa.
Số vàng của nàng lúc đó đã tính được đến hai ba ngàn lạng.
Ngoài bạc vàng ra, nàng còn thiếu gì hoa tai vành cánh bằng châu bằng ngọc.
Giàu, ai cũng muốn và cứ tưởng hễ giàu là ai cũng phải luồn cúi mình.
Hạnh Hoa Xuân đã lầm ở điểm này.
Nàng có tiền, nhưng lại vừa keo kiệt, vừa bất cận nhân tình, thành thử chẳng ai thèm lui tới giúp đỡ
Ấy chính vì thế mà hôm loạn ly giặc giã, bọn cung nữ thái giám ai lo phận nấy, tìm đường trốn chạy, dù có biết cũng mặc kệ, chẳng thèm báo cho nàng hay.
Sáng sớm tinh sương, nàng thức dậy thì có ngờ đâu hoàng đế đã ra đi, mọi vật xáo trộn không còn có thể hiểu nổi nữa.
Nàng giật mình hoảng sợ, và cũng lo cuốn gói theo.
Nhưng lúc sắp lên đường nàng thấy một đám cung nữ, thái giám già hùng hùng hổ bổ xông vào phòng, rồi một tiếng gầm lên, tất cả đều động thủ.
Trước hết, chúng thắt cổ cho nàng chết, mắt không kịp nhắm, miệng không kịp ngáp, chỉ hắt ra được mấy tiếng ặc ặc! Làm cái việc giết người xong, chúng làm thêm cái việc cướp của! Bao nhiêu vàng ngọc châu báu của nàng, vơ vét hết ráo.
Thật đáng thương cho một kiếp đào hoa xinh đẹp như mộng, mà thây ma nằm quanh queo trên giường không chôn cất, để mãi cho đến rữa đến nát, ruồi bọ mang đi.
Số kiếp Hạnh Hoa Xuân đã thế, thì số kiếp Đà La Xuân cũng chẳng hơn gì.
Nàng sống dưới một cái am nhỏ, lễ Phật, ăn trường chay, hoàn toàn trong trắng, không bận chút hồng trần.
Người trong cung ai thấy nàng cũng lấy làm thương xót.
Ấy cũng nhờ vậy nên khi hoàng đế đã bỏ chạy lên Nhiệt Hà, nàng được viên tổng quản thái giám ngầm tới báo tin cho hay.
Từ khi bước chân vào cung.
Đà La Xuân đã coi cái chết như vô nghĩa, bởi thế, khi nghe viên thái giám báo tin, nàng chẳng hề hoảng sợ, vẫn thản nhiên tụng kinh niệm Phật, gõ mõ điểm chuông.
Bọn cung nhân và thái giám đã đi hết, nàng bỗng lại thấy một tên tiểu thái giám tới khuyên nàng nên chạy ra khỏi vườn, còn nói thêm cho nàng biết trong vườn chẳng còn ai tra xét, có thể yên tâm mà đi thẳng về nhà.
Đà La Xuân nghe nói có thể về nhà được, bỗng thấy xúc động, lòng nhớ cố hương dâng lên ào ạt.
Thể là nàng gói ghém chút ít đồ đạc quần áo, theo gót tên tiểu thái giám ra khỏi am.
Nàng bước qua từng khu vườn này tới dãy nhà khác, chỗ nào cũng vắng lặng quạnh hiu, khiến lòng càng thêm ảo não.
Nàng nghĩ thân phận mình: mẹ nàng thì đã vì thương nàng mà chết tại trong cung, còn nhà thì chẳng có mà về.
Lúc này nàng mới cảm thấy mình bạc phận, nếu có ra khỏi vườn thử hỏi rồi đi đâu nương nhờ qua ngày đoạn tháng!
Nàng suy nghĩ vẩn vơ như vậy một lát rồi bỗng quyết định với một ý định liều lĩnh trong trí.
Giữa lúc quyết định này chân nàng cũng vừa bước tới cây cầu Vạn Phương.
Tên tiểu thái giám vô tình cứ lẹ làng bước tới phía trước.
Nàng nhân lúc xuất kỳ bất ý, nhón đôi gót ngọc lao mình xuống đáy hồ dưới cầu.
Một tiếng bùm vang lên trong cảnh tĩnh mịch của một khu nhà hoang vắng lặng, mặt hồ vừa bị xao động nay lại đã khép lại và phẳng lỳ như một tấm thảm xanh.
Thế là một cánh hoa xinh tươi thơm ngát chỉ trong nháy mắt đã trớ thành héo hon tàn úa.
Trong vườn lúc này càng thê lương ghê rợn hơn, không một bóng người, không một luồng sinh khí, hoa chỉ thấy chập chờn vài cành cây khô trong đám cỏ rậm như những bóng ma.
Tên tiểu thái giám từ xa nghe một tiếng ùm trên mặt hồ, vội quay lại không còn thấy Đà La Xuân, biết đã xảy ra chuyện chẳng lành.
Hắn vội quay lại, nhưng nàng đã gieo ngọc trầm châu biết nơi đâu mà tìm.
Hắn chỉ còn biết nhìn vào mặt hồ mà bật lên tiếng nấc để tiễn đưa hồn của một cành hoa tuyệt thế nhưng bạc mệnh từ lúc mới ra đời.
Cái ngày Đà La Xuân chết chìm trong hồ nước chính là ngày thứ bảy trước khi vườn Viên Minh bị Ba Hạ Lễ đốt cháy rụi.
Than ôi! Cả một khu vườn bao la bát ngát, biết bao cung điện lâu đài ao hồ đều lộng lẫy xinh đẹp, chỉ trong chốc lát đã biến thành một nơi đồng trống, rải rác đống tro tàn và những cây cột cháy xém chớm chở trên mặt đất, bỏ mặc cho sương rơi gió hú lúc đêm trường.
Tin vườn Viên Minh ra tro báo tới tai Hàm Phong hoàng đế, khiến lòng ngài như lửa đốt.
Bệnh ngài đó càng nặng thêm.
Đã có đôi lần ngài ngất đi trên giường bệnh.
Phi hầu đã có mấy phen giọt ngắn giọt dài.
Trong khi hoàng đế chết đi sống lại tại hành cung Nhiệt Hà thì liên quân Anh Pháp mưu tính tấn công Cấm thành.
Hiếu Trinh hoàng hậu được tin động trời này, hốt hoảng truyền dụ cho Cung vương mau mau nghị hoà với đối phương.
Giữa lúc nguy cấp này, có một viên thiếu tướng nước Nga tên gọi Phổ Tra Khâm nhận thấy đảy là một cơ hội thuận lợi nghìn năm một thuở cho mình: Cho nên Khâm tới khuyến cáo viên công sứ Nga tên là Y Cách Đa đứng ra điều giải giữa đôi bên để mở cuộc hoà nghị.
Cuộc hoà hội được tổ chức.
Vẫn là hoà ước thời Đạo Quang, nhưng thêm chín khoản nữa.
Nước Pháp cũng tăng thêm mười khoản nữa.
Mở cửa Thiên Tân cho người ngoại quốc vào ra buôn bán.
Bồi thường cho Anh một ngàn hai trăm vạn lạng bạc chiến phí.
Bồi thường cho Pháp sáu trăm vạn lạng binh khí.
Hoà ước hội được đưa lên Nhiệt Hà.
Hàm Phong hoàng đế vội triệu Thuỵ Hoa và Túc Thuận vào cung, thương nghị.
Hoa và Thuận vốn không ưa Cung vương đã từ lâu, cho nên khi nghe xong hoà ước liền nói:
- Giải quyết đại sự như vậy, thì hỏng bét rồi còn gì! Cứ theo hoà ước này, thử hỏi chúng ta còn gì nữa không?
Hàm Phong hoàng đế không có ý gì để quyết định lúc này.
Nhân vì ngài thường vời Hiếu Trinh hoàng hậu và Ý quý phi tới bàn soạn triều chính hằng ngày, cho nên lúc này ngài cũng cho gọi tới để cùng bàn tính, Hiếu Trinh hoàng hậu vốn tính trung hậu, nay gặp chuyện đại sự này, nhất thời không dám có lời đoán định.
Chỉ có một mình Ý quý phi tỏ ra can đảm, cứ thao thao bàn cãi.
Nàng nói:
- Hiện nay quân giặc đã ở chân thành.
Bọn ngoại quốc, nếu không được thoả mãn, ắt chẳng chịu thôi.
Việc này thực ra thì hỏng đã từ đầu, do bọn khốn nạn Kỳ Anh, Ngưu Giám, Quế Lương, Hoa Sạ Nạp gây ra.
Lúc đầu, kể ra cũng vẫn có thể giải quyết được.
Nhưng tiếc rằng chúng toàn là một lũ hèn nhát sợ chết, nịnh bọn ngoại nhân, động tí thì xin hoà, cuối cùng mới sinh ra chuyện nguy khốn trầm trọng như ngày nay.
Nay thiên tử mông trần ở bên ngoài, kinh sự nguy vong chỉ một sớm một chiều.
Phía nam có bọn tóc dài gây hoạ.
Phía bắc thì có bọn thổ phỉ lộng hành.
Nội loạn lo chưa xong thì làm sao mà chu toàn được ngoại hoạ.
Chi bằng ta xin Phật gia tuỳ cơ quyết đoán, chuẩn y hoà ước của chúng.
Một là để cho ngoại binh sớm lui hai là để Phật gia xa giá sớm hồi loan dưỡng bệnh ở trong cung.
Còn nếu cứ ở lại mãi nơi hành cung này thì thử hỏi chúng ta còn làm được gì hơn nữa chứ!
Một thiên đại luận này của Ý quý phi quả đã đánh trúng vào điểm yếu của Hàm Phong hoàng đế.
Ngài ốm