Vừa nghe lời Hoà Khôn nói xong, Bảo Thành ngồi ở phía dưới liền lên tiếng truyền cho nhà sư vào.
Bọn sai dịch tức thì đẩy nhà sư lên phía trước công đường.
Cậu bé nhìn thấy nhà sư liền giơ tay chỉ, vừa khóc vừa nói:
- Tôi vốn thực họ Lưu tại sao lại bảo tôi mạo nhận con cháu hoàng gia để hại tôi bị chém đầu?
Cậu bé lại kéo chéo áo nhà sư khóc lớn.
Mãi lâu, người ta chỉ thấy nhà sư tỏ vẻ hết sức ngạc nhiên và quái lạ rồi mới cất tiếng nói:
- Ngươi rõ ràng là một hoàng tôn mà? Tại sao hôm nay ngươi lại khai đổi khẩu cung? Trước đây ta bảo với mọi người rằng ngươi thuộc họ Lưu để che mắt thiên hạ, sợ người ta biết chuyện đó thôi.
Bảo Thành nghe xong, không để cho nhà sư nói thêm, giơ cao tay vỗ mạnh xuống công án, quát lớn:
- Yêu tăng đừng nói bậy! Thằng bé kia đã tự ý cung xưng và nhận tội, ngươi còn không chịu khai ra phải không?
Nói đến đây Thành lại quát lên một tiếng thật lớn nữa: "Dùng hình!".
Tức thì bọn sai nha túc trực hai bên tả hữu dạ ran rồi tay cầm nào côn sắt, nào roi thép loảng xoảng vang rền tiến sát bên nhà sư.
Cậu bé lại một phen hoảng hồn bạt vía, khóc rống lên nói:
- Bọn ta đi thôi! Tôi không muốn làm người nhà của hoàng đế nữa đâu.
Người nhà của hoàng đế gì mà chỉ bị doạ giết thế này?
Nhà sư mặt hầm hầm nổi giận, tay chỉ về phía công đường nói lớn:
- Lũ bay là một đám gian thần, trên thì dối vua, dưới thì ngược đãi bách tính.
Lũ bay đều ăn bổng lộc của Thanh triều, Vĩnh Thành Quận vương vốn là hoàng tử của đương kim hoàng đế có thù oán gì với lũ bay mà lại muốn diệt hết dòng dõi của người.
Ta chết rồi làm quỉ, thế nào cũng cùng với Quận vương bắt hồn lũ bay!
Viên Châu hoà thượng nói đoạn còn nghiến răng ken két chửi rủa bọn gian thần luôn mồm không ngớt, đến nỗi Hoà Khôn nổi máu nóng, quát lên một tiếng lớn:
- Đánh chết thằng giặc trọc đi!
Bọn sai nha đang tính động thủ thì Lưu Tướng quốc đã đứng dậy chạy tới chặn lại rồi nói:
- Hãy khoan! Nay bọn ta đánh phạm bắt cung, khiến thiên hạ chê cười là bất công.
Theo thiển ý của bản chức, thì bọn ta nên đi tìm con a đầu bế hoàng tôn ngày trước nhận xem phải hay không phải hoàng tôn, lúc đó mới nên định án.
Lúc đó trời đã về chiều, Hoà Khôn liền hô tạm nghỉ.
Ngay đêm hôm đó, Khôn vào cung, tâu rõ với Càn Long hoàng đế.
Hoàng đế bèn truyền chỉ phàm có a đầu già nào trong phủ quận vương đều phải tới công đường làm chứng.
Bọn a đầu già vốn được Xuân A Phi đối xử tất cho nên qua ngày hôm sau khi cậu bé được gọi lên công đường cho bọn này nhìn mặt thì tất cả đều nhất loạt bảo chẳng giống.
Chúng còn bẩm hoàng tôn ngày nọ gầy nhỏ mà mặt dài, trên cánh tay có nốt ruồi đỏ chứ đâu như đứa trẻ này.
Lại còn có một đứa cung rằng:
- Hoàng tôn chết năm nọ chính do tay tôi thu liệm.
Tại sao lại còn có một hoàng tôn xuất hiện nơi đây?
Một đứa khác lại cung:
- Tôi vốn là nhũ mẫu của hoàng tôn.
Chính hoàng tôn đã chết ngay trong bọc tôi mà! Điều đó quyết không lầm được.
Bọn a đầu già, mỗi đứa mỗi câu, khiến nhà sư đảnh phải nín lặng không thốt được lời nào nữa.
Lưu Tướng quốc ngồi phía trên biết rõ nhà sư oan uổng nhưng nghĩ chả có cách gì cứu được Một lát sau bọn đại thần bàn tính định tội: Viên Châu hoà thượng lập tức đem chém còn cậu bé thì đày đi xứ Y Lê.
Hôm bị đem ra hành hình, Viên Châu hoà thượng chửi bới thậm tệ bọn hôn quân gian thần.
Còn cậu bé đày đi xứ Y Lê, dần dần lớn lên, tự biết mình đích thị hoàng tôn của đương kim hoàng đế bèn nói cho Y Lê tướng quân biết.
Vị tướng quân này lại giúp cậu bé tâu về triều.
Hoà Khôn thấy bản tấu chương, tới thông báo cho Xuân A Phi biết.
Thế là Xuân A Phi lại nũng nịu với Càn Long hoàng đế để ngài cách chức viên Y Lê tướng quân, cho người thân thích của Hoà Khôn là Tùng Quẩn tới thay thế.
Nàng cũng muốn Hoàng đế hạ chỉ chém ngay cậu bé nọ tại đất Y Lê.
Càn Long hoàng đế mê mệt Xuân A Phi, nhất nhất mọi điều ngài đều nghe nàng hết.
Đáng thương thay đường đường một vị hoàng tôn mà kết liễu cuộc đời chỉ vì miệng lưỡi đàn bà!
Trong cung cấm, Càn Long hoàng đế sủng ái Xuân A Phi càng ngày càng đội mãi nàng lên tận trời xanh.
Tuy rằng ngài trong cuộc tuần du Giang Nam có đem về hai nàng Quách Giai, và Tưởng Giai nhưng thực chẳng ai vượt khỏi Xuân A Phi.
Hai nàng Quách Giai và Tưởng Giai là người Tô Châu, tính tình hoà thuận, ăn nói lanh lẹ, lại đâm ra xu phụng Xuân A Phi.
Ngược lại Xuân A Phi cũng đối đãi tử tế với hai nàng.
Xuân A Phi vốn được nuôi dưỡng từ nhỏ tại nơi khuê các, chưa từng được nghe chuyện bên ngoài ra sao; nay nghe hai nàng Quách, Tưởng kể lể chuyện Giang Nam, nào là phố xá đẹp đẽ, nào là phong cảnh xinh tươi, nào là chợ búa náo nhiệt vui vẻ thì lòng cảm thấy như điên lên vì tò mò.
Từ đó nàng cứ nói ra nói vào ý muốn cùng hoàng đế du ngoạn Giang Nam một phen.
Hoàng đế bảo nàng:
- Trẫm mới vừa ở Giang Nam về.
Nay lại đi Giang Nam e bọn quần thuần dị luận chăng!
Về sau, Xuân A Phi nghĩ ra một kế.
Nàng mè nheo với Càn Long hoàng đế cho xây cất trong vườn Viên Minh một dãy phố buôn bán sinh hoạt theo kiểu Tô Hàng (hai tỉnh Tô Châu, Hàng Châu miền Giang Nam).
Nào là tiệm bán đồ cổ, tiệm cắt may y phục, nào là tửu lầu, trà điếm, tất cả hàng hoá đều bày đặt trong các quán tiệm đầy đủ không thiếu thứ gì.
Các chủ tiệm cũng đều đưa từ Tô Hàng tới.
Cả đến người bán hoa, người bán trái cây tươi, người bán dưa, cũng bưng giỏ đi dọc phố để rao hàng, y như thật.
Bọn thái giám trong cung, anh nào cũng bỏ tiền ra để được làm chủ điếm.
Các hoá phẩm đều do quản lý cửa Sùng Văn cất ở các tiệm bên ngoài thành đem vào.
Những hàng này đều được ghi rõ giá cả.
Hàng nào bán được thì cứ y theo giá biểu mà trả tiền.
Hàng nào không bán được thì hoàn lại chủ cũ.
Đến mồng một tháng giêng (Tết Nguyên Đán) mở cửa vườn, hoàng đế hạ dụ cho phép các đại thần Mãn cũng như Hán đều được vào vườn du ngoạn.
Bọn quan viên lũ lượt đi xem đường phố, thấy có thực vật, có trái cây tươi, vội giành nhau mua.
Có lúc họ mời mọc nhau thành một bọn kéo vào quán trà, tiệm rượu.
Mấy anh hầu bàn lăng xăng chạy đi chạy lại kêu gọi món ăn thức uống, chẳng khác gì các hàng quán trong thành.
Cũng có lúc hoàng đế mặc thường phục, sau lưng có mấy bà phi tần, vào phạn điếm ăn cơm.
Gặp bọn đại thần, hoàng đế cũng chỉ gật đầu, đưa mắt nhìn nhau ra hiệu chẳng khác gì bạn hữu bình thường, đem tiểu nhị qua lại đem đồ ăn, bưng rượu, tính tiền.
Trong quán náo nhiệt tưng bừng như có hội.
Hoàng đế cùng bọn phi tần nhìn thấy cảnh vui mắt đó, vô cùng hào hứng, bất giác cười vang.
Lại cũng có lúc hoàng đế viết thiếp mời một vài người khách.
Khách đó bất quá đều là những bậc đại thần tôn thất nhàn rỗi.
Họ vào quán Tây Thanh hầu rượu ngài.
Cả bọn tha hồ cười nói, múa tay rung đùi chẳng có chút gì là câu thúc bó buộc.
Bọn đại thần chè chén đến lúc hứng chí cũng bày trò thách rượu, cũng có lúc hoàng đế một mình ra ngoài du ngoạn.
Ngài vào quán rượu gọi đủ thứ, rồi cùng bọn gái thanh lâu cợt nhả bốc hốt.
Gặp khi chếnh choáng, hoàng đế bèn ôm bừa lấy mấy đứa dìu vào phòng ngủ, tha hồ đi gió về mưa, thẳng một lèo cho tới sáng, chẳng chịu về cung nữa.
Bọn thái giám chẳng biết làm sao, đành phải đánh "vân bản" om lên ngoài cửa phòng (Vân bản là những tấm ván đập vang lên để báo hiệu cuộc thị sát của các quan viên trong triều.
Theo qui củ trong cung thì khi nghe đánh vân bản, tức thì ai nấy phải đứng dậy rời đi chỗ khác).
Cũng có lúc hoàng đế mời thái hậu đi du ngoạn xem vườn.
Thái hậu cải trang như một người thường, thấy trong vườn nào bọn sơn đông mãi võ bán cao đơn hoàn tán, nào bọn thầy bói trải chiếu gieo quẻ, cũng sà vào đám đông mà xem bói xem diễn.
Xa xa bọn thị vệ lảng vảng đó đây để báo vệ bà.
Rồi từ ngày hai mươi ba tháng giêng cho đến ngày mười tám tháng sáu, ngày đó gọi là lễ "Đăng tiết", hoàng đế lại cho lệnh mở cửa vườn.
Ngài truyền dụ cho từ các quyến thuộc thần dân Hán cũng như Mãn đến vợ chồng kẻ dân quê đều được vào vườn du ngoạn với ý nghĩa "dân đều vui".
Những ngày đó, hoàng đế cũng đi qua dạo lại giữa đám quan quyền, dân chúng, cười đùa với đám gái quê, với bọn phu nhân vợ các quan viên, hết sức vui vẻ thân thiện.
Bọn thái giám muốn làm đẹp ý của hoàng đế nên thiết lập các phòng nhỏ, đặt bày các giường nệm để ngài tuỳ ý nằm ngồi.
Cuộc vui đại chúng ấy đang tốt đẹp, thì qua ngày thứ ba bỗng một tên đại hán xông vào trong phòng, tay cầm một con dao nhọn, xớn xác ra vẻ đang tìm kiếm ai đó.
Bọn thị vệ thấy thế, xông lên bắt được tên đại hán, giao lại cho nha môn xét hỏi.
Tên đại hán hầm hầm hất mặt nói: "Vợ con ta vào vườn du ngoạn, bị tên hôn quân dụ dỗ vào phòng gian dâm rồi! Ta mà tóm được hắn thì nhất quyết chẳng tha!".
Thẩm sát quan thấy tên đại hán miệng nói toàn điều quái gở, chẳng thèm cật vấn nữa, liền tống ngay vào nhà lao, qua hôm sau cho giết luôn.
Thế rồi, từ ngày nảy ra cái án quái gở đó, trong vườn cấm không còn bọn đàn ông được vào ra nữa.
Trong vườn Viên Minh, từ khi thiết lập cái phố buôn bán đó thì cứ mỗi đêm vào đầu tháng giêng, việc mở cửa cho dân chúng vào du ngoạn đã trở thành một cái lệ.
Hoàng đế cùng bọn phi tần cũng rong chơi trong vườn mãi cho hết ngày Đăng Tiết, sau đó mới thu dọn phố xá đi hết, Càn Long hoàng đế lấy cái ý "với dân cùng vui", nên gọi khu phố thương mại đó là Đồng Lạc viên.
Sau năm thứ nhì Đồng Lạc viên mở cửa, trong vườn lại xảy ra một vụ án phong lưu tuyệt thú.
Nguyên là tại kinh có một vị Lễ bộ thị lang họ Trang, tuổi đã tới lục tuần.
Chỉ vì bà vợ kết tóc xe tơ chết mất, quan thị lang bèn tới xóm thanh lâu lấy ngay một ả kỹ nữ về làm vợ.
Ả tên gọi là Lại Chiêu Quân, mặt mũi xinh đẹp ra sao chẳng cần tả mà làm gì, chỉ cần biết ả năm đó hai mươi bốn tuổi, tính tình ưa hoạt động nên rất thích ra ngoài lang thang du ngoạn.
Những nơi náo nhiệt như đền miếu, hội hè chỗ nào chẳng có vết chân Trang thị.
Quan thị lang còn có một đứa con gái với người vợ trước.
Đứa con gái này cũng đa tình lắm, lại rất ăn ý với người mẹ kế.
Mẹ con hai người thay nhau che mắt quan thị lang, suốt ngày lang thang hết phố lớn đến đường con.
Bọn ong ve bướm lượn suốt ngày lẽo đẽo sau gót hai mẹ con nhà này, chê đầu khen cẳng, chọc ghẹo thả cửa.
Lại Chiêu Quân tính cực dâm, chi thích cười giỡn với trai, thích được người khen mình đẹp, bởi vậy bọn làm công trong các tiệm buôn, các quán nhậu đều bỡn cợt với ả, miệng ghẹo tay sờ.
Cô gái vốn con nhà đại gia khuê các, lúc đầu thấy bà mẹ kế tính tình đĩ thoã quá, bất giác mắc cỡ xấu hổ lắm, nhưng về sau đâm quen cũng cười cợt thả cửa, chẳng còn kiêng cữ gì nữa.
Ả tên gọi Thu Quan, năm đó đúng mười tám tuổi.
Hai mẹ con Lại Chiêu Quân và Thu Quan chơi lang thang kinh thành mãi xem chừng đã chán, bỗng một ý tưởng mới lạ đến với họ, nghe đồn cứ một năm một lần mở hội Đồng Lạc viên ngay tại vườn Viên Minh, cho phép quan, dân, phụ nữ vào trong du ngoạn.
Đợi đến thời "Đăng tiết", hai mẹ con Thu Quan, dồi phấn thoa son cùng theo mọi người vào vườn dạo chơi, hết phố này đến chợ kia, thích lắm.
Bọn thái giám dò la được lai lịch của hai mẹ con nhà này, bèn đánh liều gợi ý gợi tình với Lại Chiêu Quân, cuối cùng cả bọn thị vệ và các bồi bếp cũng gọi nhau tới tán tỉnh.
Hai mẹ con nhà này đã chẳng lấy làm phiền mà lại còn đắc ý lắm.
Lại Chiêu Quân thích nhất là được nghe chuyện cung cấm.
Bọn thái giám và thị vệ đều chạy tới xúm xít quanh ả, khoe mình biết lắm, hiểu nhiều; nhất là chuyện hoàng đế phong lưu, đa tình ra sao.
Thu Quan vốn gái dậy thì, mới mẻ tươi mát, nên anh nào anh nấy đều mê thích, đổ xô lại tán tỉnh.
Thu Quan chẳng bao giờ giận, nhiều khi còn cố ý làm vui