- Giết!!! Giết!!! Giết!!!
Hai đội bộ binh tràn ra khỏi chiến hào, dùng súng gỗ lao vào nhau giao chiến, lưỡi lê đâm, báng súng đập... tiếng hô chém giết ào ào vang lên.
- Hiệu trưởng, thầy thấy tân binh này huấn luyện ra sao? Có thể tung ra chiến trường chưa?
Hoàng đế Trùng Quang hỏi Mạnh, người được hỏi gật đầu cười nói
- Tạm được rồi, nhưng bọn hắn cần tắm rửa bằng máu và lửa mới chính thức trở thành chiến sỹ chân chính
- Trẫm muốn hỏi thầy, binh pháp có câu: “Binh quý hồ tinh, bất quý hồ đa”. Chữ “tinh” này lí giải như thế nào? – hoàng đế hỏi
- Vậy bệ hạ cho rằng nó như thế nào? – Mạnh mỉm cười hỏi lại
- Trẫm cho rằng “tinh” ở đây là tinh nhuệ. Binh sỹ khỏe mạnh, sỹ khí hăng hái, lấy một địch 10, đó là “tinh” – hoàng đế hào hứng nói
- Đúng, nhưng chưa đủ – Mạnh cười nói
- Ý thầy là...
- Mời bệ hạ đi theo thần – Mạnh làm một tư thế mời, rồi dẫn hoàng đế Trùng Quang sang doanh trại lính Lê Dương, nơi này đang đóng quân 30 ngàn quân Nhật
Mạnh vừa bước vào doanh trại, tiếng còi lập tức vang lên, trong khi Lính Chiêm, lính Đại Việt mất đến gần 5 phút mới tập trung được thì chỉ 2 – 3 phút, lính Lê Dương Nhật đã đứng vào hàng ngũ chỉnh tề, tăm tắp.
Mạnh cùng Trùng Quang đứng lên bục chỉ huy, có hai lính hầu đem ghế dựa đưa lên cho hoàng đế. Hoàng đế lập tức ngồi xuống, hào hứng xem cái mà Mạnh gọi là tinh nhuệ
Mạnh sửa lại mũ áo, tiến lên bục, hai tay đặt sau lưng, hét lớn
“Nghiêm!!!”
Rầm rập!!! Tất cả các chiến sỹ dậm chân một tiếng, thẳng chân, ưỡn ngực, ngẩng cao đầu.
“Tiểu đoàn 4, tiến lên phía trước 2 bước! Bước!”
Rầm rập!!! Rầm rập!!!... Cả tiểu đoàn đều bước tiến lên, bước chân đều như một, không hề có một nhịp bị lệch.
“Tiểu đoàn 4, chạy vòng quanh sân 10 vòng! Chạy!”
Cả tiểu đoàn bước đều chạy vòng quanh sân, đều đặn và thẳng hàng. Nhưng đó không phải là cái Mạnh muốn hoàng đế nhìn. Mạnh chỉ về phía các hàng quân bên dưới, ngoại trừ các hàng lính Nhật, các đơn vị còn lại đã bắt đầu nói chuyện, thả lỏng, chỉ trỏ.
Lúc này Mạnh mới nói
- “Tinh” đối với quân đội Liên Việt ngoài những điều hoàng thượng nói còn là trung thành, kỷ luật nghiêm minh, tuyệt đối phục tùng quân lệnh nữa. Hiện tại tân binh chỉ có 100 ngàn quân Lê dương Nhật là có thể xứng với “Tinh” từ này. Còn lại chỉ có 10 ngàn lính cận vệ cùng khoảng 50 ngàn lính cũ các sư đoàn đã tham gia trận chiến với Đại Minh là có thể coi là “tinh”.
Hoàng đế Trùng quang gật đầu, quả thật, nếu không tuân theo kỷ luật, không phục tùng quân lệnh, thì cho dù dũng mãnh, thiện chiến, cũng chỉ là một đám ô hợp, kiêu binh mà thôi.
-----------
Tháng 5 năm 1406, Minh Thành Tổ Chu Lệ sai cháu là Kỳ Vương Chu Hoài Trấn dẫn đầu 5 vạn đại quân tiên phong, tự mình cầm quân tiếp viện, ồ ạt tiến về phía Đại Đồng. Dã Mộc Chân lãnh đạo quân đội đốt phá Đại Đồng rồi rút về thảo nguyên Cha Ngã Tất, chuẩn bị đón đánh quân Minh
Ở Triều Tiên, bước tiến của quân Nhật bắt đầu chậm dần, bởi quân Triều Tiên cố thủ trong thành trì, dùng hỏa xa bắn ra làm quân Nhật bị tổn thất khá lớn, hơn nữa người Triều Tiên tổ chức các đội dân quân tấn công vào tuyến hậu cần của quân Nhật trên đất liền, tập kích các toán quân lẻ. Trên biển, thủy quân Triều Tiên đánh bại quân Nhật ở Sando, đánh chìm hơn 50 tàu chiến mà chỉ tổn thất hơn 10 chiến thuyền. Tạm thời tuyến tiếp vận trên biển của quân Nhật bị chặn lại.
Ở Đại Việt, Huỳnh Văn Nam nhận được lệnh gọi về, chuẩn bị tiếp nhận 1000 lính đặc nhiệm lấy tư cách lính đánh thuê sang Triều Tiên tiếp viện cho quân Nhật, dưới quyền tham tán quân sự trú Nhật Lý Trung Kiên. Thay chức vị chỉ huy quân đội của Nam là thiếu tá Trương Hà Minh.
Ngày 20-05-1406, Trương Hà Minh đến Đồ Bàn gặp Huỳnh Văn Nam. Nam và Minh bắt tay nhau chào hỏi xong rồi bắt đầu giao tiếp quyền chỉ huy. 2 ngày sau, Nam đến Hội An, chuẩn bị lên đường đi Nhật
Ngày 23-05-1406, Thiếu tá Minh dẫn 20 ngàn quân Liên Việt tiến về sông Kiacak, chuẩn bị giao chiến cùng quân Khmer
Rạng sáng ngày 25-05, lính Khmer trên các tháp canh bên ngọn núi cạnh sông đột nhiên thổi vang kèn lệnh. Từ phía xa, một ngọn cờ hai màu vàng trắng, ở giữa có trang trí một con rồng đỏ uốn lượn xuất hiện trên nền trời, tiếp đó là từng hàng, từng hàng quân Liên Việt ùn ùn xuất hiện. Lính canh Khmer lập tức thổi kèn báo hiệu, quân Khmer ào ào tràn ra khỏi doanh trại, mặc giáp, cầm vũ khí, sẵn sàng chiến đấu. Lính Khmer đội mũ trụ có hình bông hoa sen, gồm các miếng vảy bằng da khâu lại với nhau; mặc áo giáp bằng vải có đính các miếng sắt, mang theo thuẫn dài bằng gỗ, hoặc thuẫn tròn, tay cầm kiếm Thái lan hoặc giáo, hoặc một loại vũ khí gần tương tự lưỡi hái, lưng đeo cung tiễn
Chiến tượng Khmer mặc giáp mây đan, chỉ để lộ đôi mắt, ngà được gắn lưỡi dao xoắn để tăng thêm sát thương. Quản tượng ngồi trên cổ voi, còn trên lưng voi thì được đặt một cái bành bằng gỗ, bên trong có 1 lính bắn tên, một lính ném lao và một lính cầm đao cán dài hoặc câu liêm. Lính tượng binh của Khmer đội mũ rộng vành, mặc giáp da màu đen có trang trí hoa văn, để trần tay chân.
Bên này, 20 ngàn lính Liên Việt có 5000 lính Lê Dương Nhật, 5000 lính Đại Việt, 7000 lính Chiêm, 3000 lính dân tộc Tây Nguyên tuyển mộ từ các bộ lạc. Về vũ trang, lính Nhật, lính Chăm được trang bị súng trường 1402 – t3, súng shotgun 1404, lính Đại Việt trang bị 100 khẩu súng tiểu liên 1406, còn lại là súng trường 1406 cùng pháo các loại. Còn lính Tây Nguyên trang bị nỏ, kiếm và khiên tròn. Trong khi 17000 lính chính quy trang bị thuần 1 sắc quân phục đen, mũ sắt, giầy da thì những người lính dân tộc chỉ mặc áo chàm, đầu quấn khăn đỏ, quấn khố, đi đất, trông rất nhộn nhạo.
---------------
Xin phép được nói qua một chút về trang bị kiểu mới của quân Liên Việt, đầu tiên là về vũ khí. Súng trường 1406 là bản cải tiến của súng trường 1402 t3, phát triển theo kiểu súng bán tự động M1 Garand của Mỹ, ưu điểm so với súng 1402 là nhẹ, gọn, dễ mang vác, hỏa lực cao, độ chuẩn xác lớn, dễ tháo lắp và tầm bắn hiệu quả tốt. Với tầm bắn hiệu quả 402m, tầm sát thương tối đa là 600m, được lắp ráp thêm bộ trích khí ngang, khóa nòng lùi tự động, tốc độ bắn là 60 viên/ phút, băng đạn 5 viên, tốc độ đạn khoảng 600-800m trên giây, sử dụng đạn chuẩn hóa 7.62mm. Lúc này Liên Việt đã dùng thuốc súng không khói thay cho thuốc nổ đen, nên vấn đề khói súng cũng đã được giải quyết, súng đạn đang được tạo ra hàng loạt. Súng nặng 4 kg, chiều dài 1,1m, nếu gắn thêm lưỡi lê thì dài 1,5m.
Súng tiểu liên 1406 cũng là một thành công mới của hội Liên Việt, khi Văn và đội ngũ kỹ sư đã nghiên cứu ra khẩu súng tiểu liên đầu tiên. Thực ra, nó chẳng qua là phiên bản thu gọn của khẩu AK 47. Trước đây, hội Liên Việt chưa chế tạo súng máy đơn giản vì đạn dược không đủ để cung cấp, nhưng hiện tại đạn dược đã có thể chế tạo số lượng lớn, vì thế súng tiểu liên, đại liên cũng bắt đầu được chế tạo ra.
Súng nặng 4,2 kg, dài 94cm, băng đạn dài 42 cm, sử dụng đạn chuẩn 7,92mm, tốc độ bắn là 200 -300 viên/ phút, tốc độ đạn 600 – 800 m/s, có lắp bộ trích khí ngang, khóa nòng lùi tự động hoặc bán tự động. Phạm vi hiệu quả là 300m – 500m, băng đạn 30 viên.
Pháo hiện tại cũng đang dần dần thay đổi thành lựu pháo hạng nặng có rãnh nòng xoắn, khóa nòng sau, bắn đạn đầu có ngòi nổ, cỡ nòng chủ yếu là 20mm, 40mm, 50mm