Edit: Yunchan
Điện Hạ nhìn chăm chăm mặt sông, lặng thinh không đáp lời nào, bên môi vẫn nở nụ cười như có như không. Kinh Niên nhìn chăm chú y giây lát, rồi vòng mắt qua y nhìn sang Lô Hoài Nhâm bị tách ra xa: “Lô đại ca, huynh cũng định chờ tới ngày mai sao?”
Lô Hoài Nhâm vỗ một phát lên lan can, mạnh tới nỗi song sắt rung lên bần bật, dằn giọng đáp: “Chờ thì tốt nỗi gì? Ta ăn cả bụng cơm, chờ người không nói, còn chờ quỷ chờ quái nữa sao? Đây là cái lẽ gì! Nó dám chường mặt ra hại người còn mặc kệ được sao? Đường ta ta cứ đi, để coi nó là thứ thối nát gì, chân đụng phải thì tiện chân đạp luôn, sợ gì nó?”
Kinh Niên vỗ tay, cười hì hì nói: “Đại ca quá khí phách! Lần ở phế trạch, Kinh Niên còn cười lén huynh quá rụt rè dè dặt nữa!”
Lô Hoài Nhâm nhớ lại tình cảnh khi đó thì cười ha ha: “Cẩn thận chút là tốt, mạng người giá trị mà, nhưng can đảm lại càng tốt hơn, làm nghề này không mạnh dạn xông pha thì sao được, muội nói có đúng không, tiểu muội?”
Kinh Niên gật đầu khen tới tấp, sau đó ánh mắt lại bay về hướng Điện Hạ: “Ý của Lô đại ca chính là ý của Kinh Niên, Điện Hạ, nếu ngài băn khoăn thì chúng ta nên chia làm hai đường, đêm nay Lô đại ca với ta chuồn trước, ngài chờ tới sáng mai cầu mở hẵn qua, Huyền Ảnh nhất định sẽ theo ngài, về phần đạo gia… ta thấy hắn mỏng manh dễ vỡ quá, đừng nên theo đường chúng ta thì hơn!”
Điện Hạ nghe cô nói hai câu cuối thì bỗng dưng bật cười: “Xem ra chuyến đi này Thủ lão đệ khiến muội phiền lòng rồi.” Nếu không sao cứ trêu suốt từ đầu đường tới cuối đường, chẳng lẽ quan hệ giữa Đạo sĩ với Thi quan đã tới nông nỗi nước lửa bất dung rồi à?
Kinh Niên lắc đầu: “Đạo gia quả là làm cho ta nhức đầu, nhưng không liên quan gì tới phiền hay không phiền, chẳng qua vừa nhìn cái tướng khó ưa đó là người ta đã ngứa lưỡi, muốn trêu cho tức thôi.”
Điện Hạ liếc mắt ra sau, ngó cái người đang ngồi quay lưng về phía Huyền Ảnh hút thuốc phì phì, cười đồng cảm: “Cũng đúng, cái dáng trẻ con này, ai thấy cũng muốn bắt nạt.”
Kinh Niên cũng cười theo một tiếng, rồi giương mắt nhìn về phía Huyền Ảnh đứng bên cạnh, cái đảo mắt này, tất nhiên Điện Hạ biết cô đang nhìn ai, nụ cười trên mặt tắt ngóm, nhếch mép hỏi: “Muội nói chuồn qua cầu, nhưng thị vệ đã đóng chốt ở đầu cầu không cho qua, muốn chuồn kiểu nào?”
Lô Hoài Nhâm chen vào: “Thị vệ thì đơn giản, một xử một dư sức.”
Điện Hạ cũng đoán trước bọn họ sẽ giở thói bạo lực, bèn mở xoạch quạt xếp ra vỗ nhẹ trước ngực: “Haizz, không được không được! Sao có thể tự tiện ra tay đánh người được? Người ta đâu chọc tới chúng ta.”
Kinh Niên tiếp lời cực nhanh: “Được rồi, vậy để họ đánh trước hai cái.”
Điện Hạ vẫn lắc đầu: “Chẳng phải chỉ muốn qua cầu sớm thôi ư, đáng để xung đột lấy cứng đối cứng sao? Thế có đáng hay không!”
Cái này không được cái kia cũng không xong, Lô Hoài Nhâm bắt đầu bốc hỏa: “Huynh đệ, theo ý ngươi thì chúng ta phải đợi tới sáng mai sao?”
Lúc này Kinh Niên lại im thin thít, cô biết Điện Hạ có sở thích nói chuyện đánh vòng, càng hỏi y càng vòng tới chóng mặt, thôi thì cứ dứt khoát im miệng, chờ y tự nói cho lành.
Quả nhiên, lúc hai người cùng tắt đài, Điện Hạ cũng gập quạt xếp lại, đến đây mới chịu nói vào trọng điểm: “Muốn qua cầu cũng không phải việc khó gì, ta, tại hạ bất tài… cũng quen biết không ít bằng hữu làm quan trong kinh, trong đó khéo thay lại có một Nam quận thủy đề đốc, khéo thay vùng này lại thuộc quyền cai quản của y, nếu thương lượng một chút, thì phá lệ một lần cũng không phải quá khó.”
“Ầy, huynh đệ! Sao ngươi không nói sớm? Xoay tới xoay lui xiêu xiêu vẹo vẹo, ta sắp bị ngươi xoay tới quáng rồi đây!” Lô Hoài Nhâm nghe y nói đẩy nói đưa cả buổi, cuối cùng thành ra y có cách vượt sông Hắc Thủy ban đêm, đã vậy còn nói nhiều thế làm chi?
Nụ cười của Điện Hạ vẫn không giảm, mắt liếc qua người bên cạnh: “Còn không phải vì cô nương này sao, mới nói một câu đã xác định ta sẽ đợi tới bình minh.”
“Nghe ý của huynh đệ, chẳng lẽ muốn đi chung với hai chúng ta à?”
“Dĩ nhiên, ta đã mời hai người hỗ trợ thì bản thân đâu thể làm rùa rút đầu, nào có lý này chứ?” Điện Hạ nắm cán quạt lúc mở lúc đóng, cúi đầu như đang nhìn mặt sông, nhưng ánh mắt lại liếc nghiêng một bên.
Kinh Niên nhấp nhấp môi, bàn tay đang nắm lan can đột nhiên siết chặt lại: “Nếu Điện Hạ đi, tất nhiên Huyền Ảnh sẽ theo, đạo gia kia…” Trong phút chốc, trong đầu cô hiện lên tình cảnh trên núi Mai Lĩnh, Gia Cát Thủ rõ ràng sợ tới nỗi bỏ chạy vậy mà lại bị mấy câu của cô khích tướng, kiên nhẫn ở lại chiến với linh xà hai đầu, nghĩ tới đó không khỏi nhếch môi: “Đạo gia nhất định sẽ không rớt lại.”
Điện Hạ gật đầu: “Ta nói rồi, càng nhiều người càng bớt nguy hiểm.” Nói đoạn lui ra sau vài bước, quay lưng đi: “Việc này không nên chậm trễ, ta sẽ bảo Huyền Ảnh tới Đốc phủ một chuyến.”
Y bước nhanh tới trước Huyền Ảnh, thông báo vài câu, rồi lấy từ trong lòng ra một vật như miếng ngọc bài. Sau khi Huyền Ảnh nhận lấy thì hỏa tốc chạy đi tháo dây buộc, trở người nhảy vọt lên yên ngựa, phi như bay dọc theo sông Hắc Thủy về hướng Tây.
Điện Hạ quay trở lại, Kinh Niên xít lại gần nhỏ giọng trêu: “Ngài đây nào phải thương lượng với bằng hữu, rành rành là đang lấy thịt đè người?” Cái ngọc bài sáng lóa đó tương đương với hoàng tử đích thân tới, nào cho phép Thủy Đề Đốc nói chữ “Không” chứ?
Điện Hạ thở dài, mở quạt xếp che nửa bên mặt trái, nghiêng đầu nói: “Chuyện nhất thiết phải làm thôi, thị vệ ở đầu cầu với cuối cầu không tính, đầu đường vào cốc còn có người gác, nếu muốn xông bừa vào thật thì chỉ sợ rước thêm phiền toái, thế nên đừng xem thường cái lệnh thông hành nhỏ bé!”
Ba người hàn huyên với nhau thêm một lát, Gia Cát Thủ ngồi xổm bên cạnh hút thuốc xong thì nhét cái tẩu vào trong lòng, đứng dậy phủi phủi y phục rồi đi qua, hắn không buồn đếm xỉa tới Kinh Niên và Lô Hoài Nhâm mà đi thẳng tới sau lưng Điện Hạ, lấy bát quái Thái Hư cầm trước ngực nói:
“Từ nãy đến giờ, bát quái Thái Hư luôn rung động, tuy phản ứng rất yếu ớt, nhưng vùng này quả thật âm khí dầy đặc, có điều bần đạo quan sát hồi lâu vẫn chưa tìm ra nơi bắt nguồn âm khí, có lẽ có liên quan tới thứ quỷ quái bên trong Phong Hoa cốc. Điện Hạ, lát nữa phải cẩn thận.”
Ra lệnh cho Huyền Ảnh đi đòi lệnh thông hành, khỏi cần nghĩ cũng biết chắc chắn là muốn xuất hành vào đêm.
Điện Hạ quay người nhìn về phía mặt đĩa, quả nhiên nhìn thấy bát quát trên tay hắn khẽ rung rung, phát ra âm thanh ong ong, đồ trang sức hình bán cầu khảm giữa đĩa cũng lúc sáng lúc tối.
Lô Hoài Nhâm liếc xéo qua, hừ khẽ một tiếng, ngạo mạn nói: “Theo văn thư có liên quan ghi chép lại, trước khi Ma vương Hình Thiên bị phong ấn từng dùng cả đời để luyện tà khí, phân ra bốn nơi trong lòng đất, thông qua mạch nước ngầm tới các nơi. Nơi nào âm khí đi qua cây cỏ đều héo úa, dịch bệnh lan tràn, cả người lẫn thú đều chết hết. Đại Thần Thiên Tôn bèn cho đòi chúng tiên hợp lực bày pháp trận ở chung quanh âm huyệt, tuy không cách nào niêm phong hết, nhưng có thể ức chế âm khí tiết ra ngoài, khiến nó không đến mức ảnh hưởng tới cuộc sống của mọi người…”
Hắn ngừng một lát, thấy Gia Cát Thủ và Điện Hạ nghe tới chăm chú, bèn cười nói tiếp: “Ta không biết chuyện trong sách này viết là sự thật hay là do người đời sau bịa đặt, nhưng tứ đại âm huyệt thì không sai, Phong Hoa cốc trước mặt là một chỗ, sông huyệt tương liên, nên sông Hắc Thủy này mang âm khí bên trong ra ngoài cũng là điều dễ hiểu, mà con sông này là sông sống, dòng nước thay đổi liên tục, thế nên đĩa bát quái của tiểu… đạo gia này có phản ứng nhưng không tìm ra nơi bắt nguồn, ngươi nói có phải không?”
Lô Hoài Nhâm ngoái đầu toét miệng với Gia Cát Thủ, làm lộ ra cả hàm răng trắng bóng, hệt như đang ngầm xỏ hắn kiến thức nông cạn. Mặt Gia Cát Thủ đỏ bừng, tuy trong lòng tức giận, nhưng nghĩ lại, hắn cũng từng nghe kể lờ mờ về chuyện tứ đại âm huyệt này, nhưng hắn chỉ coi đó là truyện dân gian, mấy thứ ghi chép trong văn thư cũng chẳng thèm đọc kỹ một đoạn nào, chuyện cần biết lại không biết, sao có thể trách người khác coi thường? Vì vậy chỉ thở hộc ra vài hơi, rồi thu hồi đĩa bát quái, khiêm tốn thỉnh giáo: “Theo bần đạo biết, vùng Phong Hoa cốc từ trước tới nay rất bình yên, sao người mới dời đi đã xảy ra biến cố? Chẳng lẽ là bị âm khí dưới lòng đất ảnh hưởng sao?”
Theo lý nếu trước đây mọi người có thể an cư lạc nghiệp, thì dù hôm nay có thứ gì tác quái cũng không trách được âm huyệt trở mình, thế vấn đề ở đây là gì? Người bị hại chết thì không thể mở miệng, người may mắn trốn thoát thì cũng ốm tới mụ mị, càng đồn đi thì càng biến tấu muôn hình vạn trạng.
Lô Hoài Nhâm chống cằm lặng thinh, Kinh Niên liếc hắn một cái rồi thay mặt tiếp lời: “Trong phủ Tướng quân ở núi hoang ngươi cũng từng nói đĩa bát quái có phản ứng đúng không? Lúc đó Lô đại ca lại cố tình chọc cho ngươi phát hỏa, mà không nói rõ ràng.”
Gia Cát Thủ nhìn về phía Lô Hoài Nhâm, chỉ thấy hắn gãi đầu cười trừ, rõ là bộ dạng bị nói trúng tim đen. Nhớ lại khi đó mình bị người ta châm chọc thiếu hiểu biết, bực bội nên không ngẫm kỹ lại, bây giờ được Kinh Niên chỉ ra, thì lại sực chú ý tới vị trí Nam thành đó trùng hợp nằm ở vùng Nam Lĩnh, mà Nam Lĩnh lại giống với Phong Hoa cốc, cũng là một trong tứ đại âm huyệt. Núi hoang cách Nam thành không xa, cái hố bên trong phủ Tướng quân ban đầu là một miệng giếng, lẽ nào âm khí xuôi dòng chảy vào trong cái giếng này?
Kinh Niên thấy hắn ra chiều đăm chiêu, trong lòng biết hắn đã ngộ ra, bèn nói tiếp: “Núi hoang đó vốn tên là Nam Lĩnh, từng là sơn cư thịnh địa, nhưng vì chặt cây quá độ, tài nguyên trên núi ngày càng thiếu thốn, mọi người đều dời nhà xuống dưới chân núi, nên mới trở thành một ngọn núi hoang. Điện Hạ từng kể cho ta nghe một sự tích, có người đào được một xác nam trăm năm dưới giếng nước trên núi Nam Lĩnh, diện mạo vẫn y nguyên sống động, thi thể không chỗ nào thối rữa…”
Cô không kể tiếp việc Tướng quân thời đó xin ban thưởng, mà chỉ liếc mắt nhìn Điện Hạ đầy thâm ý, đoạn chậm rãi nói: “Sau đó ta hết suy lại nghĩ… thi thể không thối rữa nếu không phải dương hồn ở trong cơ thể thì là âm phách trú ngụ bên trong…”
Điện Hạ chen lời: “Xác nam kia không mục rữa, chẳng lẽ là bị quỷ hồn nhập thân sao?”
Kinh Niên lắc đầu, quay đầu nhìn về phía bóng núi mờ tối: “Người có ba hồn bảy phách, hồn là tâm thức, có linh hồn sử dụng mà vô hình người, phách là nơi tiếp nhận và cất trữ tâm thức, ba hồn một là Thái Thanh Dương hòa khí, một là Sảnh Linh khí, một là Âm Biến khí, ba hồn này sinh thì mang tới chết thì mang đi, người sống thiếu một phần hồn ắt tâm trí không đầy đủ, người chết thiếu một phần hồn ắt không được thăng thiên. Mà bảy phách —- Thi Cẩu, Phục Thỉ, Tước Âm, Thôn Tặc, Trừ Uế, Xú Uế, tích tụ âm tà của con người thưở bình sinh, sau khi người chết thì tách khỏi ba hồn, nhập vào xác chết thì trở thành lệ thi, vào cơ thể sống thì trở thành yêu ma quỷ quái, vào súc vật thì trở thành độc, nó không thể đánh đồng với quỷ hồn. Điện Hạ nói xác nam kia chưa hóa thành bất cứ loại nào trong số đó, có thể thấy nó không liên quan gì tới hồn phách. Sau đó ta sực nhớ ra tên của ngọn núi hoang, mới suy đoán thi thể đó chắc hẳn bị âm khí dưới lòng đất thấm vào lục phủ ngũ tạng, mặc dù hồn phách không còn, nhưng tại nơi cực âm cũng có thể giữ được trăm năm bất biến.”
Điện Hạ chưa từng nghe ai kể tỉ mỉ về chuyện quỷ thần như vậy, trong nhất thời nghe chăm chú tới xuất thần, mãi tới khi Kinh Niên khép cái miệng nhỏ lại lâu thật lâu rồi vẫn chưa tỉnh táo lại. Còn Gia Cát Thủ lớn lên ở đạo quan từ nhỏ, tất nhiên thuộc những thứ này như lòng bàn tay, chẳng qua lúc nói tới đoạn tên ngọn núi hoang là Nam Lĩnh thì thoáng giật mình. Hắn vẫn cho rằng núi hoang đó cách âm huyệt không xa, nào ngờ lại chính là chỗ đó. Tuy mấy câu này không thoát khỏi âm huyệt, nhưng nói tới nói lui vẫn chưa nói vào trọng điểm!
Hắn đang định mở miệng hỏi, Kinh Niên lại như hiểu rõ tâm sự của hắn, tiếp luôn: “Tất nhiên âm khí dưới đáy giếng có thể khiến người chết không thối rữa, nhưng âm khí tỏa ra mặt nước suy cho cùng vẫn có hạn, do đó đĩa bát quái của đạo gia mới phản ứng yếu, nếu không nó đã quậy banh Nam thành tới gà bay chó sủa rồi, đâu còn sống yên vui như vậy chứ? Cứ thế mà suy ra, yêu tinh hại người trong Phong Hoa cốc này không thể đổ lên đầu âm huyệt được, trừ phi…”
“Trừ phi cái gì?” Ba người còn lại đồng thanh truy vấn.
Kinh Niên cười hì hì, cầm bím tóc lên nghịch: “Ờ… cũng không chắc lắm, nói theo cách khác đi, mọi người ngẫm lại nhé, nếu như trong cái giếng Nam Lĩnh không phải một tử thi không hồn phách, mà là bên cạnh… thì thế nào?”
“Bên cạnh…” Lô Hoài Nhâm sờ sờ cằm, chân mày ngày càng nhíu chặt.
Gia Cát Thủ thì gõ bộp vào lòng bàn tay: “Đúng rồi! Nếu có linh hồn thì không phải xong rồi sao? Ngay cả con người cũng phải biến thành quỷ!”
Điện Hạ bất giác liếc mắt qua Thi Ngũ gia và Trần Mộc, cổ họng động vài cái, khéo thay bị Lô Hoài Nhâm nhìn thấy, lập tức bật cười, lôi hành đầu của mình qua: “Đừng sợ, huynh đệ, chúng ta đây là thuần chủng tự nhiên mà, phải không?” Dứt lời, lấy cùi chỏ huých huých hành đầu, rồi liếc qua Kinh Niên cười ha ha.
Kinh Niên thấy tầm nhìn của Điện Hạ vẫn đảo qua lại giữa hai hành đầu, rõ ràng hoàn toàn không hiểu mô tê gì về phương diện này, bèn kéo tay Thi Ngũ gia đặt vào hai tay mình: “Điện Hạ, cương thi cũng chia làm ba bảy loại. Âm hồn mượn cơ thể, âm phách nhập thân… hành đầu của bọn ta thì khác với con người. Con người là thân và hồn hợp thành nhất thể, hồn vào tâm sinh dương khí khu động thân thể. Còn họ thì thân và hồn tách biệt nhau, mặc dù hồn lưu lại trong cơ thể nhưng không cách nào nương tựa vào đó, tuy có dương khí nhưng không thể chảy tràn ra tứ chi bách hài, hồn không vào tâm thì vô tâm. Người vô tâm tự nhiên vô tình, ngay cả cử động cũng chỉ xuất phát từ bản năng khát cầu dương khí, thi đả thương người cũng không xuất phát từ ác ý, mà tất cả đều vì vô tâm…”
Lòng bàn tay chợt giật lên, Kinh Niên hơi rũ mí mắt, gập ngón tay siết chặt bàn tay đang nắm bên trong lại, nắm một hồi mới dần dần thả lỏng, sau đó vẫn cười tươi như trước: “Chẳng qua là dù có thân thể con người che chở, nhưng hồn phách vẫn bị ánh mắt trời ảnh hưởng phần nào, đợi sau khi hồn tan hết bảy phách, thì bản thân cũng đi theo ánh mặt trời. Những tên đã hư thối vẫn có thể cử động, tám phần là trong cơ thể không còn bao nhiêu hồn phách. Đương nhiên, cũng có ngoại lệ, tỷ như Ngũ gia nhà ta đây, có bí phù tổ truyền của ta che chở, ba hồn bảy phách ấy hả! Một phách cũng không chạy được!!”
Điện Hạ nhìn trái ngó phải: “Bí phù là cái gì? Có phải thứ dán trên trán hắn không?”
Gia Cát Thủ cũng cau mày hỏi: “Có loại phù này thật sao? Bần đạo mới nghe lần đầu.”
Kinh Niên buông tay ra, đổi sang ôm cánh tay Thi Ngũ gia, cười làm mặt quỷ: “Đã nó là bí phù tổ truyền thì sao để cho người ngoài biết được?” Sau đó nhìn về phía Lô Hoài Nhâm: “Lô đại ca, đừng nói ngay cả huynh cũng cho rằng Kinh Niên nói dối nhé?”
Lô Hoài Nhâm sững ra một giây, sau đó cười hùa: “Ta không biết bí phù có thật không, nhưng nhìn hành đầu của muội, không tin cũng không được!”
Kinh Niên tất nhiên là êm từ tai khoái từ bụng, khen Ngũ gia, nghe nhiều hơn cũng không chán tý nào!
Sau đó cô lại bị Điện Hạ hỏi tiếp về đủ loại truyền thuyết yêu ma quỷ quái. Đợi Huyền Ảnh về tới thì trời cũng đã tối hẳn, trên mặt sông phản chiếu ánh trăng cong cong và hàng ngàn ngôi sao lấp lánh. Sau khi đưa ra lệnh thông hành, thị vệ giữ cầu kiểm tra một lát, xác nhận con dấu không phải đồ giả xong mới bằng lòng mở rào thả người.
Mấy người thúc ngựa chạy một mạch từ đầu cầu tới cuối cầu, ôm vòng theo bờ sông phi nhanh về hướng Phong Hoa cốc, tại đây lại chạm phải vài nhóm thị vệ, chạy mãi tới đầu con đường rừng vào cốc mới giáp mặt nhóm canh gác cuối cùng. Thủ lĩnh thị vệ xem lệnh thông hành xong, hết lời khuyên can nhưng vẫn vô dụng, đành sai người châm năm bó đuốc chia cho mỗi người rồi mới cho qua.
Phong Hoa cốc là vùng thung lũng trũng, phía trên cốc bao quanh bởi rừng rậm và đất bằng, sườn dốc dẫn vào cốc cấu thành từ loại đất đỏ tơi xốp, màu mỡ ẩm ướt, là chất dinh dưỡng dồi dào cho cây trà hoang mọc sum xuê tươi tốt. Hoa sơn trà sinh trưởng, tháng ba nhú ngọn, tháng tư đâm chồi, tháng năm ngừng phát triển, hạ tuần tháng năm tới trung tuần tháng sáu khi gió mùa hạ thổi qua sẽ thúc đẩy hoa nở. Mỗi độ hoa sơn trà nở rộ, cánh hoa bay lả tả phía trên thung lũng, hương trà phảng phất, hợp thành một khung cảnh đặc biệt. Bất kể từ trên cốc nhìn xuống hay từ đáy cốc ngắm lên, đều như thể cách một lớp màn sa dệt bằng hoa bay bổng, bởi thế nơi đây mới có cái tên là Phong Hoa cốc.
Tuy mua bán lá trà mấy năm gần đây ngày càng phát đạt, nhưng cư dân nơi đây vẫn không hái lá trà để trao đổi, mà lại mua những cây khác chôn xuống đất để vun trồng. Thứ nhất vì không muốn lãng phí tài nguyên đất đai, thứ hai cũng vì cây trà hoang dại sinh trưởng thành vùng rộng lớn như vậy cực kỳ hi hữu, định kỳ hái một ít lá trà sẽ giúp cho cây sinh sôi nảy nở, nhưng thu hoạch số lượng lớn thì lại dễ gây ra tình trạng vàng lá khô lá. Dân ở đây hái lá trà hoang về nghiền thành bột trà, cất trong nhà, chỉ khi tới dịp đặc biệt hoặc chiêu đãi khách quý mới tách một góc để pha, bởi vị trà ngọt nhẹ thanh sạch, phiến lá trắng bạc, nhọn về hai đầu, nên văn nhân từng thưởng qua vị trà này đã đặt cho nó một mỹ danh là “Tố Tuyết Hoa Tuyền”.(*)
(*) Suối hoa tuyết trắng.Bấy giờ đã qua tháng tư, cũng đúng dịp hoa lá đâm chồi, nhưng đoàn người của Kinh niên thúc ngựa đổ dốc hồi lâu, sắp tới tận đáy cốc, vậy mà cây trà chung quanh vẫn khô cành trụi gốc hệt như mùa đông, gió táp vào mặt cũng lạnh lẽo tiêu điều, khiến người ta run cầm cập, càng đi xuống dưới càng lạnh, như đang bước vào một vùng khí hậu khác.
Lô Hoài Nhâm và Kinh Niên giục ngựa đi song song ở đầu hàng, Điện Hạ, Gia Cát Thủ một trái một phải đi chính giữa, Huyền Ảnh chắn hậu.
Thình lình một trận gió thổi rít qua, cây đuốc trong tay Lô Hoài Nhâm phụt tắt, đúng lúc đó, Gia Cát Thủ cũng phát ra một tiếng kêu khẽ, hai tay đồng thời ấn lên eo, cây đuốc tuột khỏi tay rơi phịch xuống đất, tắt ngấm.
“Sao thế?” Điện Hạ ngoái đầu nhìn về phía hắn, giọng cất cao trong tiếng gió ào ào có vẻ bén nhọn kỳ lạ.
Sắc mặt Gia Cát Thủ không khá mấy, ghìm ngựa rồi tháo bát quái Thái Hư bên hông xuống, đĩa bát quái được cầm trên hai tay thì càng chấn động kêu “Lạch cạch” liên hồi, vừa rung vừa xoay tròn, trang sức hình bán cầu giữa đĩa phóng ra ánh vàng sáng rực: “Lúc đầu chỉ chấn động nhẹ, nhưng càng vào trong thì càng rung khủng khiếp hơn…”
Khi hắn nói chuyện thì cánh tay cũng đồng thời bị đĩa bát quái rung tới nỗi giật lên xuống: “Lần đầu ta thấy nó chuyển động như thế…”
Thấy sắc mặt hắn trắng bệch, đầu mướt mồ hôi lạnh, tim Điện Hạ cũng đập tăng tốc theo. Bất ngờ một trận gió nữa thổi thốc qua, cây đuốc trong tay Điện Hạ và Huyền Ảnh cũng lần lượt tắt phụt, tỏa ra hai luồng khói xanh, lượn lờ lãng đãng rồi tan biến trên không trung.
Điện Hạ chợt cảm thấy bóng tối ập tới từ bốn phía, tiếng lăn của hòn đá, tiếng ma sát của cành khô, không tiếng động nào không làm y giật mình, tới câu hỏi sau đó cũng không thốt nổi ra lời, chỉ dắt ngựa quay vòng vòng tại chỗ, không nhìn được phương hướng.
Kinh Niên giục ngựa đến gần, cầm cây đuốc tới gần mặt Điện Hạ, mới nhích khẽ, ngọn lửa mỏng manh chập chờn vài cái, rốt cuộc vẫn bị nuốt vào gió lạnh, chỉ còn lại ánh sáng của quả cầu hắt ra từ đĩa bát quái. Kinh Niên ném cây đuốc xuống đất, trợn to hai mắt nhìn về hướng Điện Hạ: “Điện Hạ, đừng hoảng hốt, đúng là ở đây âm khí rất nặng, nhưng vẫn chưa tới mức chúng ta phải lo lắng…”
Cô ngước mắt nhìn bầu trời, bóng cây chằng chịt, bồn bề xào xạc tối đen, còn thoang thoảng mùi mục nát khó ngửi, nhưng mặt đất vẫn bằng phẳng, còn có dấu vết đi đường. Thế là cô vin vào đó trấn an: “Ngài nhìn thử đi, suốt đường đi mặt đất đều sạch sẽ, một không có thây phơi giữa đường, hai không có vết máu, cho thấy những người xông vào trước đây không phải bị giết hại ở đây, đại khái xuống chút nữa mới đụng…”
Nhìn sắc mặt y khẩn trương, lại bỏ thêm một câu: “Đương nhiên, ngài muốn quay về hướng cũ cũng được, như vậy là hay nhất.”
Lô Hoài Nhâm cũng ngoái đầu lại nói: “Huynh đệ, ngươi không làm nghề như chúng ta, nên nhanh chóng quay về thì hay hơn.”
Điện Hạ há mồm ngơ ngác, mất một lát mới ý thức được họ đang nói gì, lập tức lắc đầu nguầy nguậy,
miễn cưỡng căng ra một nụ cười mỉm, cố giữ bình tĩnh nói: “Như vậy sao được, mọi người cùng tiến cùng thoái, cùng lắm thì… chỉ đền một cái mạng!”
“Hì… Điện Hạ, mạng người là đáng tiền nhất, đừng lấy chuyện sống chết ra làm trò đùa chứ.” Kinh Niên hớn hở vỗ một chưởng lên vai y, suýt nữa vỗ y rớt xuống ngựa.
Lúc này Huyền Ảnh trầm giọng nói: “Huyền Ảnh nhất định sẽ liều mạng bảo vệ Điện Hạ.” Dù cách một lớp mạng che mặt không thấy rõ biểu cảm, nhưng có thể nghe ra sự kiên định trong giọng nói.
Kinh Niên dời tầm mắt dừng lại trên người hắn một lúc lâu mới thu hồi. Ngay khi cô kéo dây cương quay ngựa lại, Gia Cát Thủ tiến lên đi tới giữa Kinh Niên và Lô Hoài Nhâm, nghiêng người hỏi: “Không phải nói âm khí của âm huyệt có pháp trận bao bọc sao? Tại sao lại thế này?”
Hắn nâng đĩa bát quái, buồn bực nhìn thân đĩa đang chấn động.
Lô Hoài Nhâm cười phá lên một tiếng, rồi cũng nghiêng người tới gần bát quái: “Tiểu đạo gia, đó là trên văn thư ghi thế thôi, ai biết là thật hay giả?”
“Nhưng ở trong phủ Tướng quân không phải thế này.” Chẳng phải ở đó cũng là một âm huyệt sao? Nhưng âm khí ở đó vẫn cực kỳ nhỏ bé, độ dao động của đĩa bát quát nếu không chú ý còn tưởng bước đi làm nó lắc theo.
Kinh Niên vỗ nhẹ lưng hắn, nói với hắn bằng giọng ôn hòa hiếm khi xài tới: “Đi tới nữa không phải là biết ngay sao? Đi thôi!” Nói rồi ngoảnh sang Lô Hoài Nhâm: “Lô đại ca, huynh có gan dẫn đầu không? Kinh Niên hơi sợ rồi!”
Lô Hoài Nhâm vỗ ngực bồm bộp, sảng khoái nói: “Không thành vấn đề! Cứ giao hết cho đại ca muội!”
Dứt lời thúc hai chân vào bụng ngựa, đi thẳng tới trước mở đường.
Kinh Niên đi bên cạnh Gia Cát Thủ, Điện Hạ chếch phía sau, Huyền Ảnh vẫn đi cuối.
“Mục… Kinh Niên cô nương, không phải vì bận tâm ta nên cô mới đi rớt lại chứ?”
Chẳng phải Gia Cát Thủ tự đánh giá thấp tài mình không bằng người, mà qua quãng thời gian ở chung này, hắn ngày càng nhận ra cô nương này không đơn giản. Mới đầu chỉ nghĩ cô ỷ vào một hành đầu ra ngoài lừa ăn gạt uống, lúc đến trấn Mai Lĩnh, cũng chỉ kinh ngạc cô không biết sống chết, vì tiền có thể bán mạng. Nhưng sau đêm nay, nỗi băn khoan trong lòng hắn chỉ tăng chứ không giảm, rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra với Linh Xà? Sự thật đúng như cô nói ư?
Trước khi ngất hắn vẫn chưa cho Linh Xà vết thương trí mạng, sao có thể ngủ một giấc an ổn tới hừng sáng? Nếu cô nương kia chạy thoát thì chỉ có một cách giải thích là Linh Xà cũng tự động dừng công kích, rời khỏi Mai Lĩnh trong một đêm, nếu không thì chẳng lẽ dời nhà vào đất ngủ!
Chuyện này… chuyện này đúng là nghĩ mãi không thông! Nếu cô nương kia không chạy… mà hạ gục Linh Xà, cứu được mạng hắn, vậy thì thực lực đó tất nhiên không cần bàn nữa! Dù bây giờ chuyện đó còn mơ hồ, nhưng ở bờ sông Lý Nữ, cô im hơi lặng tiếng đuổi theo tới nơi, còn lệnh Thi Ngũ gia khống chế hắn trong chớp nhoáng, không để lại một đường phản kháng nào. Lúc ấy dù không nhìn thấy mặt cô, nhưng giọng điệu đó lại khiến người nghe như bị quẳng vào suối băng, lạnh thấu tim, nếu như không có Huyền Ảnh ra tay cứu nguy, thì rất có khả năng hắn đã chết ngay lập tức trong tay Thi Ngũ gia rồi, khi đó hắn thật lòng nghĩ mình hết sống nổi.
Sau đó, cô khi thì ngọt ngào đáng yêu, khi thì chanh chua đanh đá, khi thì nghiêm trang chững chạc, khi thì thờ ơ hững hờ… Nói chung, không để lộ ra bộ mặt đêm hôm đó lần nào nữa, nhưng đáy lòng Gia Cát Thủ đã sinh ra ý sợ hãi từ lâu, lúc nhìn cô, giá nào cũng không cảm thấy đây là tiểu cô nương hoạt bát rạng rỡ, còn hơi tính con buôn mà mình gặp gỡ lúc đầu nữa. Mỗi lời nói cử chỉ của cô lọt vào mắt đều hóa thành một ý đồ khác. Ít nhất bây giờ, khi cô rớt lại phía sau đi song song với hắn hoàn toàn không giống vì “Có hơi sợ” như lời cô nói!
Kinh Niên nhìn cái dáng đề phòng của hắn mà bỗng dưng buồn cười: “Đừng nói ngài nghĩ Kinh Niên đi cạnh để ám toán ngài nhé?”
Gia Cát Thủ thộn mặt ra, hắn chưa từng nghĩ mình đáng để người ta ám toán, huống hồ hiện tại họ là bạn không phải địch, ở đây cũng không có lý do để gây bất lợi cho hắn, vì vậy hắn nói thẳng: “Dĩ nhiên không phải… bần đạo chỉ hỏi đại thôi.”
“Hì, Kinh Niên cũng đáp đại —- tại ngài đa nghi quá thôi.” Kinh Niên nhìn về hướng bàn tay đang nắm dây cương, đột nhiên hếch đầu lên hớn hở nói: “Đạo gia, cuối cùng ngài cũng chịu gọi tên Kinh Niên rồi nhỉ? Hồi trước không ê, nè thì là cô nương này nọ, ai không biết còn tưởng ngài gọi họ, ngoài đường đầy nhóc cô nương mà!”
Bị cô nhắc như thế, Gia Cát Thủ mới để ý vừa rồi mình xưng cô là gì, trước đây vì giận cô luôn chọt chỉa xỏ xiên đạo gia này đạo gia nọ nên mới không thèm gọi tên cô, bây giờ nghĩ lại tới mình còn buồn cười, hơn thua nhau thứ này làm gì? Làm kêu tới nỗi thuận miệng. Nghĩ rồi hắn cười đáp: “Không phải cô cũng gọi đạo gia suốt đó à, chúng ta huề nhau, không, cô phải gọi trả ta một tiếng mới huề!”
“Gọi ngài một tiếng? Gọi gì? Đại ca hay lão đệ? Ta cũng đâu bắt chước người khác, đạo gia là Kinh Niên gọi đầu tiên, đương nhiên phải gọi tới cùng!” Kinh Niên le lưỡi với hắn giả làm mặt quỷ, rồi quay đầu ngêu ngao một điệu hát.
Gia Cát Thủ lại không thấy giận, sờ sờ mũi, đột nhiên phát giác tiểu thi quan này cũng có chỗ đáng yêu.
Đi thêm một đoạn nữa, rốt cuộc cũng tới được đáy cốc, vượt qua rừng trà thì thân cây chắn tầm mắt cũng thưa dần, tuy ánh trăng mờ mịt, nhưng nương theo ánh sáng rực rỡ phát ra từ bát quái cũng có thể thấy được quang cảnh cách đó không xa. Vách nhà đổ nát, hàng rào gỗ bị bứng ra nằm chỏng chơ dưới đất, cho thấy hành động tháo dỡ nhà này do con người làm ra, nhưng chỉ tiến hành được phân nửa thì bị chuyện gì đó cắt ngang.
Kinh Niên cúi đầu, chỉ có thể nhìn rõ khoảnh đất cách vó ngựa chưa đầy mười tấc. Trên đó có vết máu đỏ sẫm, còn hằn khá nhiều vết cào ngang dọc, cô quay đầu lại kêu một tiếng “Cẩn thận”, rồi ngẩng đầu nói với Lô Hoài Nhâm: “Lô đại ca, chúng ta đi vào trong chút nữa đi!”
“Được” Lô Hoài Nhâm đáp một tiếng rồi đạp chân thúc ngựa, nhưng móng trước của con ngựa cứ đạp qua đạp lại, quanh quẩn trái phải, rõ ràng không chịu bước tới trước, hắn cau mày kéo dây cương, quát to: “Đi! Nhanh!” Nhưng con ngựa này lại hất đầu lên, phát ra tiếng hí vang the thé.
Kinh Niên trở mình xuống ngựa, lên tiếng gọi Thi Ngũ gia, sau đó đi tới hai bước: “Lô đại ca, thôi, chúng nó tới được đây đã không dễ dàng rồi, thả chúng về đi.”
Lô Hoài Nhâm nghĩ ngợi một chút, gật đầu: “Cũng được!” Đoạn tung người xuống ngựa gọi Trần Mộc, ba người còn lại cũng lần lượt xuống ngựa.
Bốn con ngựa tụ tập lại, chụm đầu liếm liếm nhau rồi đi trước. Con ngựa của Điện Hạ thì cọ mặt với y, tình thương mến thương một lúc lâu, mãi tới khi chủ nhân xua tay đuổi thì mới giật lùi về phía sau mấy bước, quay đầu phóng vó chạy đi.
Nhóm Kinh Niên cũng quay lưng đi vào trong cốc, mới vừa đi mấy bước, chợt nghe sau lưng vang lên tiếng “Vút”, ngay sau đó tiếng ngựa hí thảm thiết xuyên thủng rừng cây. Mọi người quay phắt đầu nhìn lại, thấy một bóng ngựa dao động trên đường rừng, ở cổ chẳng biết dính phải vật gì, ánh sáng quá mờ nên chỉ thấy một đống đen kịt.
Điện Hạ nhào lên đầu tiên, vì con ngựa đó y cưỡi đã nhiều năm, tình cảm rất sâu đậm, vừa thấy nó bị tập kích trong lòng đã nóng như lửa đốt, cũng quên luôn cả sợ. Huyền Ảnh đuổi sát bên cạnh y, ba người còn lại cũng hối hả chạy theo.
Nhưng dù đuổi theo cũng không còn kịp nữa, tới khi mọi người chạy lại, con ngựa kia đã phun bọt máu, không còn cách nào để xoay chuyển tình thế. Thứ đỏ đen pha tạp kia chính là một cái đầu người, chỉ dư lại cái cổ, yết hầu kéo lê giữa không trung, ở chỗ đứt nhầy nhụa máu thịt, không thể phân biệt rõ đó là xương đầu hay da. Chỉ thấy trên cái mặt nứt nẻ đẫm máu đen là cái mồm há to rợn người, lúc khép lúc mở gặm cắn cổ ngựa, một phát cắn xé toạc một mảng thịt da, tới phát cắn tiếp theo ngay cả gân cốt cũng bị cắn đứt. Tiếng gặm cắn “Răng rắc” lẫn vào tiếng dinh dính sền sệt của vụn thịt va chạm, khiến người nghe sởn gai ốc, da đầu tê dại.
Nhìn thấy thảm trạng này, Điện Hạ chạy tới đầu tiên lúc này chết sững bất động, không dám lê thêm bước nào, trơ mắt nhìn cái đầu kia cắn xuống phát cuối cùng, xé đầu và mình của con ngựa ra làm hai, ngay khi đầu ngựa rơi xuống đất, cái xác ngựa không đầu cũng đổ vật xuống theo. Cái đầu người kia rít lên ken két, xoay tròn thần tốc, chuyển sang cái gáy đứt trên thân ngựa. Cái đầu bay ngang, cắm thẳng vào nửa đoạn cổ đứt, làm văng lên một mảng máu thịt.
Điện Hạ thấy cái đầu nọ cắm lên thân con ngựa của mình rồi xoay tít, xoay tới nỗi chỗ đứt tung tóe thịt nát, vô cùng thê thảm. Nghĩ con ngựa lúc sinh tiền mười phần linh tính, sau khi chết lại bị chà đạp như vậy, thoắt cái một cơn bi phẫn xông lên đầu, dằn xuống mọi sợ hãi, y lập tức khua cây đuốc vọt tới, gào lên phẫn nộ: “Thứ quỷ quái này! Còn không cút ngay cho ta!”
Huyền Ảnh tức khắc bay vọt lên.
Cái đầu kia xoay tít một hồi thì đột nhiên dừng lại, mặt quay ngoắc về phía Điện Hạ, ngoác rộng mồm, hai hàm răng bén nhọn va nhau lạch cạch, ở cổ họng phát ra tiếng lục bục nguy hiểm.
Rồi nó thình lình rút khỏi gáy ngựa, lao lên không bay thẳng về phía Điện Hạ, cắn phập vào đầu cây đuốc. Điện Hạ cầm cây đuốc gãy quơ đánh túi bụi, cái đầu kia lúc cao lúc thấp, lúc trước lúc sau, từ đầu tới cuối vẫn không thể đánh trúng nó. Sau mấy gậy đánh hụt vào không khí Điện Hạ đã kiệt sức, tay thoáng dừng lại nghỉ lấy sức, đúng lúc này cái đầu há mồm ngoạm thẳng xuống phía đối diện.
Gia Cát Thủ thét lên một tiếng, Kinh Niên và Lô Hoài Nhâm đuổi theo đằng sau đồng thời bắn ra phù chú trong tay, nhưng cự ly quá xa, e là không kịp. Ngay khoảnh khắc cái miệng đầy răng nhọn sắp hôn lên mặt, Điện Hạ chợt thấy sau cổ bị giật một phát, cả người té ngửa ra sau, khiến cái đầu kia cắn hụt vào không khí, nhưng nó không chịu thua, tiếp tục vồ tới cắn thêm phát nữa.
Diễn biến sau đó xảy ra chớp nhoáng, Huyền Ảnh lướt tới trước, vung tay phải lên, ba cây ngân châm đâm vào giữa đầu người, hai cây găm vào mắt trái, một cây cắm vào mắt phải. Cái đầu tức thì xoáy thẳng lên cao, rú lên lồng lộn. Nhưng chưa qua bao lâu, mái tóc khô quắc của nó đột nhiên hất tung lên, hai con mắt trào máu muốn lồi ra khỏi vành mắt, miệng rách tới mang tai, chiếc lưỡi cháy sém thò ra khỏi miệng xoắn lại bên ngoài, bề ngoài trông càng dữ tợn hơn.
Rồi bất thần nó lao vút xuống dưới, nhắm chính xác vào Điện Hạ đang ngã ngồi dưới đất, Huyền Ảnh vung tay kéo y qua tách khỏi cái đầu, đưa tới bên cạnh che chắn. Cái đầu đột ngột chuyển hướng phóng qua Gia Cát Thủ. Gia Cát Thủ đã chuẩn bị trước, dựng thẳng Thái Dương kiếm ở trước ngực từ lâu, chưa đợi nó tới gần đã tung ra
“Nhất thức đại diễm tên”, tặng liền ba tiễn, nhưng mũi tên lửa còn chưa bắn tới cái đầu thì đã lụi tắt.
Âm dương tương sinh tương khắc, âm thịnh thì khắc dương, ngẫm lại ở đây âm khí thịnh khắc lửa dương trên mũi tên lửa, mới đưa tới tình trạng tên vừa bay ra đã bị dập tắt.
Giữa lúc hắn hết đường xoay sở thì cái đầu đã bay tới trước người, Thi Ngũ gia đằng sau chộp lấy Gia Cát thủ nhảy tới bên cạnh Kinh Niên, cùng lúc đó Lô Hoài Nhâm bắn lá bùa “Trấn” ra ngoài. Trần Mộc nhảy lên trước kẹp lá bùa vào hai ngón tay dán lên ót đầu người, nào ngờ cái đầu vẫn hoạt động không ngừng, quay phắt lại phập một phát, cắn tước một miếng da lớn trên vai Trần Mộc, nhai rau ráu vài cái rồi khạc ra phì phì.
Lô Hoài Nhâm quát to một tiếng: “Nhân huynh!!”
Dứt lời bổ nhào tới, vung một quyền thụi ngay vào trán, đánh bay cái đầu ra ngoài, lá bùa lập tức rơi ra. Tiếp theo nhanh chóng kiểm tra chỗ bị cắn của Trần Mộc, người bị thương có thể khỏi hẳn, nhưng thi bị tổn thương thì không cách nào khôi phục, nếu muốn sử dụng hành đầu lâu dài, thì chủ phải hết sức cẩn thận.
Lô Hoài Nhâm xé phần áo trên vai của hành đầu xem thật kỹ, cũng may chỉ bị tước một miếng da ngoài, đến đây hắn mới thở hắt ra.
Nào ngờ cái đầu thừa dịp hắn lơ là cảnh giác bay vòng lại, thần tốc như gió, Lô Hoài Nhâm không kịp phòng bị, hai tay đan chéo trước mặt yểm hộ. Gia Cát Thủ đoán trước được hướng đi của cái đầu, cấp tốc chắn ở trước Lô Hoài Nhâm tung ra một chiêu “Đại diễm hỏa luân”, ngọn lửa của thức thứ hai lớn hơn thức thứ nhất, có thể cầm cự được một chốc trong cự ly gần, nhưng uy lực cũng không lớn, chỉ có thể ngăn được nhất thời, chẳng mấy chốc hỏa luân đã tắt lịm.
Lô Hoài Nhâm cười to nói: “Ha ha ha, tiểu đạo sĩ, đa tạ cứu giúp, ân huệ này, ta nợ!”
Nói rồi khua tay ngăn Gia Cát Thủ lại, tay không tấc sắc đọ sức với đầu người, Trần Mộc kề vai sát cánh với hắn, ở bên tung quyền cước tương trợ, hai người một trái một phải, chiêu thức quyền pháp giống hệt nhau, phối hợp cực ăn ý.
“Quá bản lĩnh!” Kinh Niên vỗ tay khen ngợi, nhưng thấy cái đầu tuy bị đánh cho thoái lui liên tiếp, mà vẫn có thể hoạt động, cứ đánh tiếp như vậy thì còn phải kéo dài bao lâu? Đợi tới bình minh thì nó sẽ bỏ chạy hay tan biến? Vậy chẳng phải uổng công họ lên đường suốt đêm sao, còn không bằng ở khách điếm đánh một giấc cho đã mắt!
Mắt cô dạo qua một vòng, rồi kéo Gia Cát Thủ qua kề tai nói: “Ngài dùng mắt âm dương nhìn thử xem trong cái đầu đó có linh hồn hay không nhé?”
Căn cứ theo lẽ thường, đầu mình tách đôi, hồn tất nhiên sẽ dựa vào chủ thể.
Lúc này, Huyền Ảnh cũng nhảy lên triền đấu, để Lô Hoài Nhâm liên tục thi triển quyền cước được nghỉ xả hơi, thân thủ của Huyền Ảnh cực nhanh, cái đầu xoay cỡ nào cũng khó lòng tiếp cận.
Gia Cát Thủ khép mắt lại, con mắt trái hóa thành kim sắc, hắn nhìn kỹ càng một lúc lâu rồi nói: “Không có! Trong cái đầu đó không có hồn! Không hồn làm sao cử động được?!”
“Chỉ cần một phách trong số bảy phách tồn tại là có thể hóa thi thành yêu ma quỷ quái, mắt âm dương chỉ có thể nhận biết hồn chứ không nhìn thấy khí âm phách.” Chắc hẳn thi đầu ở đây đã bị âm khí lây nhiễm, không cần xác cũng có thể ứng phó: “Vậy cũng tốt, không cần bận tâm chuyện thăng thiên!”
Sau đó gân cổ hét về phía đám đánh nhau bên kia: “Lô đại ca! Huyền Ảnh! Thi đầu có phách không hồn, chỉ cần đánh nhừ là được rồi, không thì xắt vụn ra cũng được!”
Lô Hoài Nhâm vừa ra quyền vừa hét trả: “Tiểu muội! Muội nói thì dễ lắm! Muội coi ta tẩn nó bao nhiêu quyền rồi?! Chỉ đánh cho mặt nó lõm mấy lỗ thôi, muốn đành nhừ hả? Vậy phải…”
Lời còn chưa dứt, Huyền Ảnh đã rút phăng phối đao bên hông ra “Phập phập phập phập ….” xắt thi đầu thành mười tám khúc, thịt nát rơi trên mặt đất ngọ nguậy liên tục. Lô Hoài Nhâm nhấc cái chân to lên đạp một cái, nghiền bên phải nghiền bên trái, thịt khúc biến thành thịt bằm vùi vào trong đất, xong xuôi hắn quay đầu nhìn về phía Huyền Ảnh nói: “Nè! Huynh đệ lồng che, ngươi có đao cũng nên tuốt ra sớm sớm chứ, làm mất công tốn sức quá thể, còn lãng phí cá đống ngân châm!”
“Đúng đúng, nó là bạc thật đó, đem đi cầm có thể đổi được vài xâu tiền!” Kinh Niên xen mồm, chân trái chà chà gót chân phải, mắt tỏa sáng nhìn chằm chằm mặt đất.
Huyền Ảnh thấy Điện Hạ đứng lên, bèn bước lại đỡ, lúc lướt qua Kinh Niên nhẹ giọng bỏ lại một câu: “Châm là mạ bạc.”
Kinh Niên vừa nghe, tức thì đổi sang cái mặt khổ qua, Gia Cát Thủ cứng họng, lát sau mới lắp bắp nói: “Huyền… Huyền Ảnh… Hộ vệ… lại… lại… nói chuyện kiểu đó…”
Kinh Niên lấy tay đập đập lưng hắn: “Huyền Ảnh đâu phải người chết, đương nhiên có thể nói chuyện!”
“Ta không có ý đó… là…” Hắn đang nghĩ xem nên dùng từ ngữ gì để diễn tả độ nghiêm túc của Huyền Ảnh, Kinh Niên lại chạy thẳng về hướng đáy cốc, vừa chạy vừa ngoái đầu ngoắc ngoắc: “Đi tiếp thôi! Nhanh lên chút nào!”
Gia Cát Thủ và Lô Hoài Nhâm theo sát phía sau, lúc này Thi Ngũ gia mới nhảy theo, chẳng biết tại sao tốc độ nhảy lại chậm hơn bình thường không ít. Đợi Điện Hạ tưởng niệm cho con ngựa yêu xong, cùng Huyền Ảnh cất bước đuổi theo, lúc này Trần Mộc mới chậm rãi giơ hai tay lên.
Ba người nhóm Kinh Niên dẫn đầu chạy vào trong cốc, chỉ thấy vách tường và mặt đất la liệt máu đen và thịt vữa, nhưng không thấy một cái thi thể nào. Chạy thêm một chút nữa, Kinh Niên và Lô Hoài Nhâm không thấy hành đầu theo tới, chẳng thể làm gì hơn là dừng lại đợi, Thi Ngũ gia chỉ tới sớm hơn Điện Hạ và Huyền Ảnh vài bước, mất hồi lâu mới thấy Trần Mộc nhảy lừng khừng tới, tốc độ còn chậm hơn cả người thường đi bộ.
Gia Cát Thủ thấy kỳ lạ, hỏi: “Chúng làm sao vậy? Bình thường chạy còn nhanh hơn mà chúng cũng đâu rớt lại.”
Hắn là đạo sĩ, thấy tình huống này tất nhiên là khó hiểu, nhưng Kinh Niên và Lô Hoài Nhâm lại biết rất rõ, vốn dĩ không muốn nói nhiều, nhưng đã có người hỏi thì nói chút đỉnh cũng không sao. Vì vậy Lô Hoài Nhâm mở miệng giải thích: “Ở đây âm khí không phải tầm thường, cũng có ảnh hướng tới hiệu lực của phù chú, vẽ bùa dẫn xác vốn là bổ dương trấn âm, nơi đây dương không thắng âm, phù lực tất nhiên sẽ bị suy yếu, thành ra hành động của họ chậm chạp hơn cũng là bình thường.”
Gia Cát Thủ gật đầu, toan hỏi thêm một câu, thì chợt nghe giọng Kinh Niên vang lên bên tai: “Không có thì giờ nói chuyện phiếm đâu!”
Kinh Niên giương mắt nhìn lên bầu trời phía trước, một giọt mồ chảy từ trán xuống mặt. Mọi người nhìn theo ánh mắt cô, chỉ thấy trên bầu trời cách đó không xa có một đụn mây đen đang bay tới hướng này với tốc độ cực nhanh, đụn mây cuộn trào sóng lớn, càng tới gần càng rõ hơn —- đó nào phải mây đen gì, căn bản là hàng loạt đầu người tụ chung một chỗ, rậm rạp chi chít, nối dài không dứt!