Edit: Yunchan
Điện Hạ có hơi bất ngờ khi cô nói thẳng ra như vậy, tuy khẩu khí bất kính, nhưng ý tứ trong đó lại rất rõ ràng. Y từng tận mắt nhìn thấy cô nương này dùng một đạo bùa hàng phục cuồng thi mà chúng Ngự quan phải bó tay hết cách. Phải nói rằng thực lực không thể khinh thường, bằng không phụ hoàng cũng sẽ không mời cô vào triều. Nhưng một cô nương ít tuổi đời, dù lợi hại cũng không dọa chết người được. Trước tiên không đề cập tới chuyện trong cung cao thủ như mây, mà chỉ mình Huyền Ảnh cũng quyết không rơi vào thế hạ phong, cô lấy đâu ra tự tin thế chứ? Ỷ vào Thi Ngũ gia bản lĩnh cao cường hay chỉ nói bừa mà thôi?
Những suy nghĩ này lóe lên rồi biến mất trong đầu y, nghĩ thì nghĩ vậy, nhưng lời thốt ra miệng lại hoàn toàn khác.
Chỉ thấy y run ống tay áo, trượt quạt giấy ra nắm trong lòng bàn tay nhưng không mở, chỉ gõ đánh nhịp lên hàng rào làm phát ra tiếng “Keng keng” giòn giã, đoạn cười nói: “Mục ngự quan chớ nên hiểu lầm, lần này ta đến đây không phải là muốn làm khó muội, phụ hoàng đã đồng ý với ta, nếu muội muốn quay về cống hiến cho triều đình, thì Thi Ngũ gia vẫn thuộc quyền của muội. Còn nếu thật sự không muốn, chỉ cần mang vật quy về nguyên chủ(*), thì mặc cho muội ngao du bốn phương trời nam đất bắc.”
(*) Vật trả về chủ.Nói tới đây, y dừng lại quan sát phản ứng của Kinh Niên, chỉ thấy cô sụp mắt nhìn mặt sông, cười khẽ hai tiếng, lẩm bẩm: “Hay cho câu vật quy nguyên chủ, vật là ai, chủ là ai…”
Giọng điệu bình thản nhưng lại nghe ra ý châm biếm, không biết là châm biếm người nói hay là đang mỉa mai chính mình. Hai tay cô nắm lấy hàng rào, đẩy nửa thân trên ra xa, rồi ngẩng đầu lên nói: “Điện Hạ, nếu như ta không thích cái nào hết thì sao?”
Điện Hạ nghe cô hỏi ngược lại thì chau mi tâm nói: “Mục ngự quan, ta thật lòng không hiểu, vào triều làm quan có gì không tốt? Bao nhiêu người tranh giành cướp đoạt hòng chen vào, sao muội cứ phải khăng khăng lùi lại phía sau, đi ngược dòng như vậy đối với muội có ích gì?”
Kinh Niên bật cười hai tiếng, quay đầu nhìn về phía y, cất cao giọng nói: “Người có ba bảy loại, Điện hạ cũng là loại người một gậy lật úp thuyền(*) đó thôi. Kinh Niên ta mặc dù không cha mẹ không con cái, nhưng vẫn có một Ngũ gia bên cạnh, không thể nói lời nào thì sao chứ, đối với Kinh Niên mà nói ngài ấy chính là người thân duy nhất. Muốn ta chuyển ngài ấy qua tay người khác như một món đồ thì quả là chuyện nực cười nhất trong thiên hạ! Kinh Niên lang bạt bên ngoài, một không chịu đói, hai không bị lạnh, muốn ăn thì ăn muốn ngủ thì ngủ, nhân sinh vui vẻ nhất không gì hơn những thứ này. Chỉ có ngốc mới muốn thăng quan tiến chức, bị cả đống phép tắc vây khốn, gần vua như gần cọp, tổ tiên đã có vết xe đổ, giá nào cũng không giẫm lên!”
(*) Ý chỉ làm việc võ đoán, phiến diện, không phân biệt được thị phi.Điện Hạ nghe mà lắc đầu liên tục, nói thẳng: “Tầm nhìn của tiểu nữ tử, quả là tầm nhìn của tiểu nữ tử!”
Kinh Niên trả lời: “Ta vốn là nữ tử, tất nhiên là nhìn đời bằng con mắt của nữ tử, thiên hạ lớn như thế, bao nhiêu người muốn đóng góp cho xã tắc phải ôm nuối tiếc suốt đời, bao nhiêu quan lại trong triều chỉ lo bản thân ăn uống hưởng lạc, hai loại người này cùng lắm chỉ chiếm một phần nhỏ trong thiên hạ mà thôi. Mỗi người một cách nghĩ, Kinh Niên chỉ muốn sống yên ổn qua ngày, không hại người cũng không bị người hại, Điện Hạ nói xem đó là sai sao?”
Không sai, nhưng tại sao nghe thế nào cũng thấy khó chịu. Y thở dài, không muốn tranh luận trên phương diện này nữa, bèn thả quạt xếp vào lòng bàn tay, nhẹ nhàng vuốt phẳng bằng năm ngón, suy tư một hồi rồi nói: “Mục ngự quan, ta tìm muội không phải chỉ vì Thi Ngũ gia, cũng không phải để bắt muội về triều diện thánh.”
Kinh Niên nhìn nét mặt nghiêm túc của y, không giống như đang nói dối hòng lừa phỉnh cô, bèn hỏi: “Vậy vì cái gì?”
Điện Hạ mở quạt xếp ra che khuất miệng mũi, tia giảo hoạt lóe lên trong mắt rồi biến mất: “Lúc muội mới vào cung vẫn chưa tự bộc gia sử(*), dù trong sách Ngự có ghi chép vẽ lại chân dung, nhưng dù sao cũng là chuyện xưa của những năm đầu triều đại, vậy mà lại có người khẳng định Thi Ngũ gia đi theo bên cạnh muội chính là cương thi bị lén mang ra khỏi cung năm xưa, muội có biết đó là ai không?”
(*) Tự bạch lịch sử gia đình.Y không trực tiếp đưa ra đáp án, nhưng câu trả lời lạc đề này lại khiến cơn tò mò của Kinh Niên trỗi dậy. Lúc hoàng thượng nói ra chuyện cũ, cô chỉ cho rằng Ngũ gia quá mức gây chú ý, tuy không có duyên nhìn thấy tư thế oai hùng của ngài ấy trong sách Ngự, nhưng với hình dáng và tướng mạo này, nhất định ai từng gặp qua sẽ không quên được. Cô chỉ cho rằng hoàng thượng đọc thuộc triều sử, có hiểu biết chút đỉnh về giai đoạn này, sau đó lật thêm sách Ngự, nên nhận ra Ngũ gia cũng không có gì kỳ lạ, lẽ nào mọi chuyện không như cô nghĩ? Kinh Niên ngẫm lại tình hình lúc đó trong lòng một lần, rồi hỏi: “Kinh Niên ngu đần, xin Điện Hạ chỉ bảo.”
Điện Hạ lắc lắc cây quạt, rời khỏi hàng rảo rồi rảo bước qua lại: “Có thể giở xem sách Ngự bất cứ lúc nào, ngoài hoàng thượng ra chỉ có người phụ trách biên soạn sách Ngự, đại thần phân phái cương thi, muội nói xem người đó là ai?”
Kinh Niên sửng sốt, phút chốc tỉnh ngộ: “Là thống lĩnh Ngự quan, Nguyên Thiên Sư!”
Điện Hạ dừng bước, quay người đối diện với cô, thu quạt xếp lại rồi đi tới trước một chút: “Không sai! Chính là hắn! Khuyên phụ hoàng thu hồi Thi Ngũ gia, muốn bắt muội hỏi tội cũng là hắn!”
Kinh Niên khó hiểu, cô với người này chỉ là người lạ, trong cung cũng chỉ gặp qua dăm ba lần, ngay cả nói chuyện cũng chưa nói câu nào, sao lại muốn gây khó dễ cho cô: “Lẽ nào trong lúc vô ý Kinh Niên đã đắc tội với ông ta sao? Kinh Niên đúng là bị làm cho rối tung lên rồi!”
Điện Hạ nhìn cô một cái, rồi chuyển tầm nhìn qua Thi Ngũ gia bên cạnh cô: “Mục ngự quan có điều không biết, hắn từng đòi Thi Ngũ gia cho mình sử dụng, khi đó muội mới vào triều chưa bao lâu, phụ hoàng khá coi trọng nên không muốn chọc cho muội thay lòng, bèn tạm dẹp chuyện này qua bên. Cương thi trải qua trăm năm mà hình dáng không đổi cực kỳ hi hữu, nghe đâu Thi Ngũ gia sinh tiền đã luyện được bản lĩnh tột đỉnh không ai bằng, thảo nào Nguyên Thiên Sư muốn giành riêng cho mình.”
Phàm là Thi quan có ai không muốn một hành đầu tài giỏi, bất kể là tổ tiên Kinh Niên hay chính cô, cũng muốn độc chiếm Thi Ngũ gia bên mình.
Kinh Niên đứng nghệt ra một lúc, suốt một năm ở trong cung, tuy không có cơ hội va chạm với Nguyên Thiên Sư, nhưng ngẫm kỹ lại, mỗi lần gặp mặt, ông ta đều nhòm ngó Thi Ngũ gia với ánh mắt quái dị. Rất nhiều người mơ ước Ngũ gia, còn từng có người dùng toàn bộ gia sản để đổi với cô, lẽ nào lão nhân kia cũng vì vậy mà tìm cô gây rắc rối?
Nghĩ ngợi một chút cơn oán trách cũng ngoi đầu dậy, thế là cô nghiêng đầu nhìn về phía Thi Ngũ gia, bực mình nói: “Đều tại Ngũ gia làm người ta thích quá đáng, ngày mai Kinh Niên may cái túi bỏ ngài vào rồi vác đi cho xong!”
Nói xong còn đập nhẹ hắn một cái, mãi tới khi nhác thấy cái mặt ngỡ ngàng của Điện Hạ mới ho khan một tiếng, quay lại với vẻ mặt lười biếng, ghé vào hàng rào ngáp một cái, một tay chống đầu, nghiêng nghiêng đầu nhìn Điện Hạ, cười như có như không nói: “Điện Hạ, từ lần trò chuyện này của ngài, Kinh Niên không cảm thấy gì khác, mà chỉ cảm thấy ngài tìm đến ta tám phần không thoát khỏi quan hệ với Nguyên Thiên Sư, theo hiểu biết của Kinh Niên về điểm này thì hình như ông ta ủng hộ lập tam hoàng tử làm người kế nhiệm vương vị, khéo thay lại đối địch với ngài.”
Điện Hạ cười lắc đầu, nói hờ hững: “Tuy ta là trưởng tử nhưng suốt ngày lông bông không có chí tiến thủ, tam đệ trấn nội loạn, thảo ngoại địch(*), liên tiếp lập kỳ công, dù ngày sau được lập làm Thái tử cũng không có gì đáng trách.”
(*) Trấn áp nội loạn, thảo phạt kẻ thù. Kinh Niên nhếch miệng, nhìn y như suy nghĩ điều gì, không phát biểu cảm nhận về câu này của y, chỉ nói: “Điện Hạ, ngài đừng quanh co với Kinh Niên nữa, cứ nói thẳng đi, muốn Kinh Niêm làm cái gì?”
Nghe cô hỏi toạc ra như vậy, Điện Hạ bèn rút lại vẻ cợt đùa, dự định từ từ tiếp cận, chậm rãi vào đề lúc đầu đều nuốt hết vào bụng, nói ngay vào trọng điểm: “Ta muốn diệt trừ đầu sâu độc kia, Mục ngự quan, hy vọng muội có thể giúp ta một tay!”
Ý định này của y, Kinh Niên đã đoán chuẩn được bảy tám phần, nhưng vẫn thản nhiên hỏi ngược lại: “Điện Hạ muốn diệt trừ… Nguyên Thiên Sư? Vì cớ gì?”
Điện Hạ muốn mời cô giúp đỡ, tất nhiên sẽ hỏi đâu đáp đó: “Phụ hoàng tuổi già lắm bệnh, từng một lần nằm liệt trên giường không dậy nổi. Sau khi được Nguyên Thiên Sư dâng lên một quả linh dược, thì đột nhiên tinh thần phấn chấn, về sau còn nghe từ miệng hắn chuyện luyện linh đan bất tử, thành ra quá sức mê mẩn, nghe theo lời hắn rầm rộ xây dựng đạo quan để luyện linh đan. Gần đây đã si dại tới nỗi Nguyên Thiên Sư nói gì nghe nấy, ngoài mặt là đang ngồi trên long vị, nhưng trong tối là lão tặc nắm giữ thực quyền, hoàng không làm hoàng, không lo triều chính, khó giữ triều cương, nếu không sớm ngày nhổ đi nanh nọc, thì khó bảo toàn được triều đại giang sơn!”
“Điện Hạ, bất luận tâm tư của ngài có đúng với lời ngài nói hay không, nhưng nếu Nguyên Thiên Sư nắm quyền, quan thần trong triều không hoàn toàn muốn lật đổ hắn, ngay cả hoàng thượng cũng nghe theo hắn, thì dù ngài có là đại hoàng tử địa vị cao quý, muốn động vào hắn sợ cũng khó như lên trời.”
“Không thể đánh sáng, vậy thì xử tối!” Điện Hạ siết chặt cán quạt, khớp ngón tay kêu lên răng rắc, trong mắt ánh lên sát ý hung tợn.
Kinh Niên quơ quơ tay, nói: “Không được không được, Điện Hạ, đây không phải ngài muốn ta giúp ngài một tay, mà định để Kinh Niên chịu tiếng xấu thay ngài!”
Dùng người của mình làm việc này quá mạo hiểm, ngộ nhỡ để lộ dấu vết, mò được một đầu mối rồi mò thẳng tới chủ tử thì toi. Mà cô là quan mới vào triều chưa bao lâu đã trốn ra ngoài, thích hợp cho hành động mượn đao giết người này nhất, dù bị bắt khai ra người xúi giục, đến lúc đó y cố chết phủ nhận, nhân tiện giáng cho một tội phỉ báng, cũng chẳng sợ lạc nhân khẩu thật(*), đúng là tuyệt thay! Nhưng Kinh Niên không phải người ngu, kiểu buôn bán lỗ vốn này cô không làm, vả lại cũng không muốn nhúng tay vào chuyện tranh quyền đoạt thế trong cung, đỡ phải dính một thân tanh tưởi.
(*) Ý là chẳng sợ lộ sơ hở cho người khác công kích.Điện Hạ cũng không giận việc cô cự tuyệt, chỉ lấy trong lòng ra một quyển sách, bày ra trước mắt cô: “Muội có biết đây là gì không?”
Thấy cô không quan tâm lắm, y cười cười nói tiếp: “Các thế hệ triều đại đều ở hết trên đây, ta lén mang một quyển xuất cung, trong đó là sử ký những năm đầu lập triều, chuyện tổ tiên muội bị giáng tội đuổi khỏi cung cũng được ghi lại trong đây, muội không muốn xóa bỏ đoạn chuyện cũ này ư?”
Trong quan niệm của y, tổ tiên là tội nhân ắt sẽ rước lấy nhục cho con cháu đời sau, y muốn dùng thứ này làm lợi thế, nếu đổi lại là người bình thường thì ít nhiều sẽ động tâm, nhưng suy nghĩ của Kinh Niên lại bất bình thường, cho nên cô chỉ há miệng cười, hệt như bị y chọc cười vậy:
“Tổ tiên là tổ tiên, Kinh Niên là Kinh Niên, dù chuyện này do chính tay ta làm thì sao chứ. Ghi trên đó ta không mất miếng thịt nào, mà không ghi ta cũng chả thêm được miếng thịt nào. Dù sao cũng làm rồi, huống hồ Kinh Niên không nghĩ làm vậy là phạm tội, Điện Hạ, chiêu này của ngài vô dụng với ta rồi!”
Lúc này Điện Hạ lại đờ người ra, cứ tưởng đâu chí ít cô sẽ suy nghĩ một chút, nào ngờ cô lại đáp trả thẳng thừng như vậy, khiến mấy lời dụ dỗ thuyết phục của y không có đất diễn. Trong đầu xoay chuyển, tính toán những cách có thể dùng khác, nhưng nghĩ hồi lâu cũng chẳng có đầu mối nào.
Trong lúc bối rối trong đầu chợt hiện lên gương mặt rưng rưng nước mắt của cô, tâm thần rung động, nhớ lại phản ứng kịch liệt của cô vừa rồi thì chợt nảy ra một kế, cũng chưa biết có hiệu quả hay không, nhưng lúc này y không thể nghi ngờ bất cứ thứ gì.
Thế là y bước tới hai bước, mặt đối mặt với Thi Ngũ gia: “Mục ngự quan, ta thấy muội khá coi trọng nó, mặc dù bây giờ ta chưa tiện làm điều này, nhưng nếu muội giúp ta lần này, thì chờ sau khi kế vị ta sẽ giao quyển ghi chép về Thi Ngũ gia trong sách Ngự cho muội xử trí, về sau nó sẽ không còn liên quan gì tới hoàng thất, đây là cam kết của ta, nếu muội không tin cũng không sao!”
Kinh Niên cười yếu ớt, nhớ trước đó y còn nói tặng vương vị cho tam hoàng tử, vậy mà chưa đầy mấy câu đã lật mặt nói chuyện sau khi mình kế vị, rõ là nói một đằng nghĩ một nẻo, lập một người như vậy lên ngôi làm sao khiến người ta tin phục đây?
Nhưng cô đích thực không thích trong sách Ngự ghi chép về Ngũ gia, trộm cướp sách phi tang chứng cứ suy cho cùng không đắc nhân tâm bằng làm theo cam kết của hoàng tử, đương nhiên, nếu lời hứa của y không phải lừa bịp, vậy thì việc này thật sự có thể khơi dậy chút hứng thú của cô rồi.
“Điện Hạ, nói miệng không bằng chứng, ngài muốn ta tin ngài mà không làm tý chuyện thực tế thì e là không ổn đâu.” Cô cười hì hì nói, bắt đầu giở trò vô lại.
Điện Hạ gập cây quạt lại, giơ tay phải lên trời lập lời thề độc: “Trời xanh tại thượng, đất dầy chứng giám, Mục ngự quan trợ ta diệt trừ gian tặc, ta sẽ ban thưởng sách Ngự, nếu có nói ngoa, ắt bị ngũ lôi oanh đỉnh, trọn đời không được siêu sinh!”
Thần thái kiên nghị, ánh mắt chân thành, Kinh Niên mới nghe đã giật mình quên bẵng cả chuyện ngăn cản, nghệt mặt ra cả buổi mới ngượng ngùng nói: “Ai bảo ngài thề độc, chỉ cần viết giấy trắng mực đen rõ ràng, rồi đóng ngọc ấn của ngài lên là đủ rồi…” Còn thề thốt kiểu này chả khác nào bắt cô đâm lao phải theo lao.
Điện Hạ khoanh tay bước lại dựa nghiêng vào hàng rào: “Ta chỉ muốn cho muội biết, lần này tới tìm muội không phải là ác ý, mặc dù cần mượn tay muội, nhưng nhất quyết sẽ không để muội rơi vào nguy hiểm. Nếu lời thề độc này còn chưa đủ, đừng nói giấy trắng mực đen, dù bảo đặt cái mạng này vào tay muội ta cũng cam tâm tình nguyện.”
Y liếc mắt nhìn sang, ngữ điệu êm ái như gió mát lướt qua mặt sông, Kinh Niên nghiêng đầu nhìn lại thì bị ánh mắt kia nhìn chòng chọc tới hết hồn, lại nghe y cười nhẹ một tiếng, nhìn lướt qua mình hướng ra phía sau: “Ngũ gia đó của muội, quả thật khiến người ta rất hâm mộ, nếu hắn là người sống, thì tới một kẽ hở nhỏ ta cũng không chui nổi…” Cứ như hiện tại đã đủ khiến y khó chịu, trong lòng y thầm cười nhạo bản thân ghen tuông với một cái xác chết.
Lòng Kinh Niên chùng xuống: “Điện Hạ, ngài…” Nói xong một chữ “Ngài” thì không biết nên nói gì tiếp nữa.
Điện Hạ nhìn mắt cô, hỏi với vẻ mặt khẩn thiết: “Mục ngự quan, ta đối với muội…”
Chưa nói hết câu đã bị cô cắt ngang: “Điện Hạ, Kinh Niên không dám trèo cao!”
Kinh Niên không né tránh mà nhìn thẳng vào mắt của y, Điện Hạ bị cô nhìn tới lạnh lòng, im lặng một lúc lâu mới hỏi: “Mục ngự quan… có phải đã có ý trung nhân?”
Thấy cô ngậm miệng không đáp, y bèn giương mắt nhìn thoáng qua cổng thành: “Là… Huyền Ảnh hộ vệ?” Ở trong triều một năm, mặc dù cô gặp ai cũng cười, nhưng luôn khách sáo xa cách, chỉ riêng Huyền Ảnh là quan tâm khác hẳn mọi người, hỏi sao y không nghi ngờ.
Kinh Niên ngẩn người, nhìn theo ánh mắt của y, thấy Huyền Ảnh đang đứng bên cạnh tường thành, thẳng tắp như tùng xanh, mặc gió táp mưa sa vẫn sừng sững bất động. Cô nhìn chốc lát rồi thu hồi ánh mắt, sụp mắt nhìn mặt giày, nhẹ giọng hỏi ngược lại: “Nếu như ta nói phải thì sao?”
Điện Hạ vừa nghe cô nói vậy thì trong lòng rúng động, ấp úng đáp: “Nếu… nếu như… phải… ta…” Y nói không thành câu, chốc thì nhìn Huyền Ảnh, chốc thì nghiêng đầu nhìn Kinh Niên, thật lòng không biết trả lời cô thế nào.
Kinh Niên có hơi không đành lòng, nói vội: “Đừng nghĩ nữa, không liên quan gì tới Huyền Ảnh, trong lòng Kinh Niên chưa từng để ý người nào.”
Điện Hạ mừng rỡ ra mặt, nhưng lại nghe cô bồi thêm: “Trước đây không, sau này cũng không, ta không nghĩ tới chuyện này và cũng không muốn nghĩ, Điện Hạ, hoa thơm trong thiên hạ rất nhiều, ngài đừng phí phạm giao lòng mình cho Kinh Niên.”
Cô quay người nhìn mặt sông, trưng ra dáng vẻ không muốn nói chuyện này nữa. Điện Hạ cũng đổi đề tài theo ý cô, trong mắt lại lóe lên hào quang rực rỡ, sáng tới bất thường: “Mục ngự quan, thỉnh cầu của ta… muội suy nghĩ kỹ rồi sao?’
Lúc nói chuyện, hai mắt nhìn chằm chằm vào má cô không hề chớp. Tuy Kinh Niên không nhìn thấy nhưng cũng có thể cảm giác được tia nhìn sáng quắc của y, lòng than
thầm không ngớt, nhưng ngoài mặt vẫn giữ vẻ thản nhiên trước sau như một: “Ngài thề độc mất tiêu rồi, ta không đáp ứng mà được à?”
Có được câu này của cô, Điện Hạ tất nhiên mừng không gì bằng, mặt lập tức giãn ra tươi cười. Kinh Niên thì thầm tính toán xem bước tiếp theo nên đi thế nào, đang mải nghĩ thì cô chợt hẫng lại, mở miệng hỏi: “Việc này có bao nhiêu người biết?”
Điện Hạ đáp: “Chỉ có muội, ta và Huyền Ảnh.” Tuy thuộc hạ đông đảo, nhưng chỉ riêng Huyền Ảnh là y tin tưởng nhất, cho nên không cố ý giấu diếm bất cứ chuyện gì.
“Đạo sĩ kia thì sao? Đuổi đi à?”
Điện Hạ lắc đầu: “Lần này ta ra ngoài, dọc đường gặp nhiều mai phục, có lẽ lão tặc kia đã có cảnh giác, định thừa dịp ta xuất cung để tiên hạ thủ vi cường(*), thế nên càng nhiều người đồng hành thì càng bớt đi một phần nguy hiểm.”
(*) Ra tay trước thì chiếm được lợi thế.Kinh Niên nghĩ câu này rất có lý, bèn tiện đà nói luôn: “Vậy Lô Hoài Nhâm đi chung cũng không có hại.”
“Lô Hoài Nhâm?” Điện Hạ nghe cái tên xa lạ này thì sửng sốt một giây, sau đó mới nhớ ra là ai. Trên đường từ núi hoang xuống thành y từng hàn huyên với hắn vài câu, biết hắn và nhóm Kinh Niên gặp gỡ nhau ra sao, lúc này nghe cách Kinh Niên nói về hắn ta hình như rất có cảm tình, trong lòng tự dưng bốc mùi chua, hỏi: “Hắn có chỗ nào xài được? Đừng để tới lúc cần chỉ làm liên lụy mọi người.”
Kinh Niên mỉm cười, trợn to hai mắt liếc về phía y: “Chớ xem thường Lô đại ca, huynh ấy không thua kém gì đạo gia của ngài đâu!” Người biết dùng Phong Hồn thuật khẳng định không phải tay mơ, đại ca kia thường ngày nhìn lương dân thế thôi, khéo cũng là cao thủ thâm tàng bất lộ đấy nhé.
Đến khi ba người trở lại khách điếm thì cũng đã gần hoàng hôn, Điện Hạ bảo chủ quán dọn một bàn cơm rồi đi gọi Lô Hoài Nhâm và Gia Cát Thủ. Ở trên bàn cơm Điện Hạ chỉ nói gặp phải chuyện phiền phức muốn tìm bằng hữu giúp đỡ, tuy Lô Hoài Nhâm quen biết họ chưa bao lâu nhưng rất trọng nghĩa khí, vừa nghe y hỏi mình có sẵn lòng đi theo không thì đã đồng ý cái rụp.
Nhưng khi Điện Hạ vào phòng Gia Cát Thủ mật đàm thì lại nói khác hẳn, trừ nguyên nhân Kinh Niên vào cung xuất cung và chuyện xưa liên quan tới Thi Ngũ gia ra, những chuyện khác y đều kể lại có chọn lọc. Chỉ nói mình phụng chỉ đón cô về triều tiếp tục nhậm chức. Lúc Gia Cát Thủ hỏi tại sao lại để kẻ không đâu làm bạn đồng hành, thì y chỉ đáp muốn lợi dụng hắn làm việc cho mình rồi sau đó đuổi đi.
Trong lúc Điện Hạ và Gia Cát Thủ trò chuyện, thì Kinh Niên đang ở trong phòng mình xử lý hành đầu. Chỉ thấy Thi Ngũ gia ngồi ngay ngắn trước bàn, mặc trường sam bằng lụa trắng, áo bào đơn đặt trên một cái ghế khác, mái tóc xõa dài quá vai, Kinh Niên đứng sau lưng chải đầu cho hắn.
“Ngũ gia, ngài nói xem có phải Kinh Niên không nên lội vũng nước đục này không?” Một tay cô cầm mép tóc, một tay luồn nhẹ cây lược gỗ vào rồi chải tới đuôi tóc, vừa nói vừa chải, động tác hết sức dịu dàng: “Haizz… Nếu chỉ là chuyện tranh giành cấu xé giữa nội bộ trong cung, thì nói kiểu nào ta cũng không thèm nhúng tay vào, nhưng bốn chỗ Nguyên Thiên Sư chọn để xây miếu quan lại là âm huyệt, hỏi sao người ta không lo, Ngũ gia… rốt cuộc Kinh Niên vẫn không buông bỏ được…”
Cô chải suông tóc rồi tém lại phía sau cho Thi Ngũ gia, tay xoa lên xoa xuống mấy lần, sau đó nắm lấy bím tóc mình bóp bóp: “Tóc Ngũ gia trơn trơn, tóc của Kinh Niên cũng trơn trơn, Phát lộ(*) trong cung đúng là khác đồ thường, phải thừa cơ chôm thêm mấy lọ mới được.”
(*) Nước dưỡng tóc.Cô toét miệng cười, đỡ Thi Ngũ gia ngồi ở mép giường: “Kinh Niên luôn thích làm gì thì làm đó, khiến Ngũ gia phải chạy theo tới mệt, thật ra Ngũ gia không cam lòng…”
Cô nghiêng đầu, tầm mắt rơi trên mặt Thi Ngũ gia, nhủ bụng lá bùa mỏng này đúng là vướng víu, bèn đưa tay vén lên cao: “Qua lâu như vậy… qua lâu như vậy… ta còn sợ gì?”
Nói rồi tay phải nhẹ nhàng mơn trớn mũi miệng hắn, tay trái vén giấy đưa lên cao hơn, một góc lá bùa đã bị bóc ra khỏi trán, lúc này Kinh Niên bỗng dừng tay lại, cô nhìn thấy trong con ngươi không tiêu cự của Thi Ngũ gia lóe lên một tia sáng mơ hồ, một lát sau toàn thân đều rung động.
Cô nuốt ực nước bọt, mồ hôi lạnh chảy từ gò má xuống, sống lưng phát lạnh khiến cơ thể nhớ lại cơn khủng hoảng này sớm hơn cả nội tâm, vài đoạn quá khứ rời rạc đột nhiên tái hiện trong đầu, khiến cô bộp một tiếng dán lá bùa về chỗ cũ, cong gập lưng há mồm thở dốc, thở được một hồi, đợi tới khi hơi thở điều hòa lại cô mới ngẩng đầu, thấy Thi Ngũ gia đã hồi phục trạng thái bình thường, ánh sáng trong mắt cũng tự biến mất mới thở phào một hơi, cười miễn cưỡng nói: “Ngũ gia, sự dũng mãnh của ngài Kinh Niên không muốn thỉnh giáo thêm lần nữa đâu, ngài hãy nhẫn nại chút nữa nhé, Kinh Niên không chỉ muốn cho ngài mỗi thân thể tự do, nếu Kinh Niên chết ở đây thì không giúp ngài được nữa rồi!”
Vừa dứt câu đã đẩy hắn xuống giường, cúi người cởi giầy cho hắn, rồi đặt cả hai chân lên giường, đắp chăn tươm tất xong thì mình cũng lăn quay vào bên trong giường, chui vào trong chăn.
“Ngũ gia, ngài còn có thể ở bên cạnh Kinh Niên bao lâu nữa đây?” Cô nhìn đỉnh màn nhẹ nhàng thở ra, không để ý tới Thi Ngũ gia đang nằm bên cạnh, bàn tay vốn đang đặt trên chăn của hắn chậm rãi nắm thành quyền, run rẩy nâng lên, nhưng chỉ một chút đã đặt về trên chăn.
Sáng sớm hôm sau, đoàn người theo Điện Hạ tới Châu Huyện phủ điều động nhân lực để niêm phong phế trạch, đồng thời xin Huyện gia một con ngựa tốt. Gia Cát Thủ và Lô Hoài Nhâm tới Nam thành để thuê một con ngựa đi đường bộ, Điện Hạ và Huyền Ảnh vốn cưỡi ngựa tới đây, còn Kinh Niên vẫn luôn trung thành với đi bộ. Song lần này không phải là du sơn ngoạn thủy, do đó Điện Hạ mới cố ý cuốn tới Huyện phủ, lấy ngựa thay cuốc bộ, rút ngắn hành trình. Kinh Niên chẳng có ý kiến gì, có ngựa thì cứ nhảy lên, giống với Lô Hoài Nhâm người trước thi sau, cũng đỡ phải vẽ thêm bùa khác. Ra khỏi châu huyện thì đi dọc theo bờ tây của con sông Lý Nữ, một đường lên Bắc.
Vòng qua con sông Lý Nữ, năm người đi đường tắt vượt qua núi, dọc đường đi ngang qua trấn Mai Lĩnh, núi Hoang Thạch, từ đường mòn Dương Tràng ngoài thành Phú Quý đi suốt tới, tới tối thì tìm một nhà trọ thôn quê nghỉ ngơi một canh giờ, không chờ bình minh lên đã tiếp tục lên đường.
Đi như vậy ước chừng ba ngày, đã ra khỏi Nam cảnh vào trung tâm của lưu vực sông Hắc Thủy. Dòng sông Hắc Thủy chảy theo hướng từ Đông tới Tây, chảy ra khỏi cảnh nội nhập vào hồ Thiên Bạc, đồng thời tạo thành ranh giới chia nơi đây thành hai miền Nam Bắc, muốn lên kinh thì nhất định phải vượt qua con sông này.
Trước đây qua sông chỉ có mỗi cách là lên thuyền, nhưng dòng người vãng lai tập trung đông đúc, hàng hóa lộn xộn, từng có lần vì quản lý không chặt mà khiến đường thủy ở vùng này bị tê liệt. Mãi tới năm Lý Thần Nguyên, Cẩm Đế lên ngôi, sai người xây hai cây cầu đá ở hai nơi trên sông mới giải quyết được phần nào vấn đề đường thủy. Hai cây cầu đá này nối dài qua sông Hắc Thủy, một dựa vào hướng Tây nằm giữa Phong Hoa cốc và thôn Hưng Lương, tên là cầu Vạn Phúc, một dựa vào Hướng Đông gần núi Thiên Dương, xưng là cầu Thiên Dương.
Nhờ đó đã chia nhỏ được lượng người qua sông, đặc biệt là một phần kiệu xe và đoàn ngựa thồ hàng, chỉ cần nộp ngân lượng, kiểm tra hàng hóa là được.
Song hôm nay chẳng những lan can cầu không mở, mà ngay cả tàu thuyền cũng đậu mãi ở bến không ra sông. Bây giờ đã gần hoàng hôn, bọn Kinh Niên cũng đứng đợi dưới cổng vòm Song Long đầu cầu Vạn Phúc lâu rồi, nếu không lên đường thì e là phải dừng lại một đêm. Khổ nỗi thị vệ canh giữ trước lan can cầu không chịu mở chốt cho người lưu thông. Gia Cát Thủ nổi sùng, bước lên lý luận với hai thị vệ, nói vài câu bất hòa đã nổi lên tranh chấp, người tụ tập chờ lên cầu chung quanh đều vây lại khuyên can, toàn nói mấy câu thiên vị hai người thị vệ kia, nói họ chặn đường cũng có lý do của họ, khiến Gia Cát Thủ xám mặt xám mày lui về.
Hắn mắng mấy người đó là đồ kỳ quái, cầu không qua được còn chờ ở đây làm quái gì. Lúc này những người khác đều lắc đầu mỉm cười. Gia Cát Thủ khó hiểu hỏi: “Có gì đáng cười?”
Điện Hạ đi tới vỗ vỗ vai hắn: “Thủ lão đệ, đệ có muốn biết tại sao mấy người kia không vội qua cầu, và tại sao không chỉ trích hai thị vệ đó không?”
Thấy Gia Cát Thủ có vẻ mù mờ, y bèn chĩa đầu quạt về hướng bên kia sông gõ gõ: “Đệ xem, bên kia cầu chính là vùng Phong Hoa cốc, tuy dân trong cốc đã dời khỏi đất từ lâu, nhưng không băng qua Phong Hoa cốc sẽ không tới được thành trấn kế tiếp, trong cốc có ba lối đi, chung điểm bắt đầu chung điểm kết thúc, hễ qua sông đi tiếp lên Bắc thì phải đi qua một trong ba con đường này, chuyện này đệ biết chứ?”
Gia Cát Thủ gật đầu, mi tâm thắt lại thành hai gút: “Vậy thì sao?” Hắn không rõ chuyện này liên quan gì tới chuyện qua sông qua cầu.
Điện Hạ mở quạt xếp ra lắc lư, quay lưng lại lan can cầu đi thong thả hai bước, thở dài nói: “Vậy thì không sao, nhưng có điều mấy ngày gần đây hễ ai đi qua ba con đường này thì đều không chết cũng bị thương, theo lời của người may mắn sống sót kể lại, thì trong cốc có ma vật quỷ quái, mỗi khi mặt trời xuống núi sẽ đi ra hại người. Sau khi nha môn Thủy ti nghe tin bèn triệu tập người tài và hiệp khách vào cốc, đáng tiếc vào nhiều nhưng ra ít, không một ai được việc. Nha môn đã xin bên trên chi viện, nhưng đà này xem ra vẫn chưa mời được. Trước đó, con đường thủy này buộc lòng chỉ mở ra nửa buổi, Thủ lão đệ, hai thị vệ đó chỉ muốn tốt cho đệ thôi.”
Dứt lời gập quạt lại gõ một cái lên lưng Gia Cát Thủ.
Gia Cát Thủ ngờ vực nhìn chằm chằm y một lát, sau đó nhìn lướt qua nét mặt của từng người một, thấy ai cũng thư thái thoải mái, rõ là đã nghe thấy trước rồi, trong bụng hết sức nghi hoặc: “Sao bần đạo chưa từng nghe chuyện này?”
Kinh Niên toét miệng cười hì hì, không thèm trả lời hắn, tiếp tục vắt vẻo trên lan can cầu ăn mơ muối. Lô Hoài Nhâm cười khì nói: “Đạo gia là quý nhân, lời của phàm phu tục tử sao vào được lỗ tai ngài.”
Hai hàng lông mày của Gia Cát Thủ dựng thẳng lên, chưa kịp nổi bão đã thấy Lô Hoài Nhâm quay người nằm bò lên lan can, hắn đành hừ hừ mấy tiếng rồi đi tới cột đá bên cạnh cổng vòm ngồi xổm xuống, ném đá trên đất xả giận.
Điện Hạ chẳng qua chỉ trêu hắn, chứ lòng luôn biết rõ Gia Cát Thủ làm việc gì cũng rất tích cực, thấy hắn giận dữ ra mặt thế kia thì biết là bị chọc tức rồi, toan đi qua lấy lòng đôi câu, nhưng ngay khi quay đầu thì nhìn thấy Kinh Niên và Lô Hoài Nhâm đứng trước lan can nói nói cười cười, biến sắc, lập tức nháy mắt ra hiệu với Huyền Ảnh, sau đó sải bước đi tới chen vào giữa hai người kia.
Huyền Ảnh đuổi theo mấy bước, bỗng quay gót đi về hướng bên phải, ngồi xổm xuống bên cạnh Gia Cát Thủ, thấp giọng nói: “Gia Cát đại nhân, lúc đó ngài đang ở trong phòng, bởi vậy không nghe được tin đồn.”
Gia Cát Thủ ngẩn ra, ngẫm lại mấy ngày nay chạy miệt mài ngựa không dừng vó, rã rời tới nỗi chân hắn muốn nhũn ra, mỗi lần tới chỗ nghỉ chân là lật đật chạy ùa vào phòng trùm chăn ngủ vùi, ngay cả cơm cũng lùa vội hai cái cho xong. Có lẽ lúc hắn ngủ mấy người kia còn tụ tập ở bàn, trong tiểu điếm người qua kẻ lại, chắc ít nhiều cũng nhắc tới chuyện này, mọi người biết hết cũng không có gì lạ.
Nhưng như vậy hắn lại càng tức, nếu bọn họ biết chuyện thì sao cứ kệ mình hắn lơ mơ, vừa rồi hắn xung đột với hai tên thị vệ cũng chả thấy người nào lên nói một câu, tốt xấu gì cũng nên nói rõ ra chứ. Kết giao lâu như vậy mà sao ngày nào cũng thích chọc điên mỗi mình hắn!
“Này! Huyền Ảnh hộ vệ! Bần đạo khiến người ta ghét lắm chắc?” Gia Cát Thủ kéo tay áo Huyền Ảnh, mắt lom lom nhìn mạng che đen ngòm trên đỉnh đầu: “Ngươi nói với Điện Hạ, nếu không muốn bần đạo đi theo thì cứ nói một tiếng, bần đạo cứ ở lỳ không đi được sao?”
Huyền Ảnh trầm mặc một hồi: “Gia Cát đại nhân, Điện Hạ không có ý này… ngài…”
Còn chưa nói hết câu đã bị ngắt ngang, Gia Cát Thủ quay đầu sang hướng khác căng môi cười: “Tiểu cô nương với tên đại nam nhân kia cũng thôi đi, Thi quan vốn đã không vừa mắt đạo sĩ bọn ta, bọn họ kích ta chọc ta cũng không có gì. Nhưng ta, ngươi với Điện Hạ biết nhau bao lâu nay, sao ngay cả các người cũng… thôi đi thôi đi… ngươi qua chỗ Điện Hạ đi, mặc kệ ta!”
Hắn xua xua ống tay áo đuổi người, Huyền Ảnh vẫn ngồi nguyên xi tại chỗ không buồn nhúc nhích, miệng ngậm tăm, trơ ra hệt như tượng đá. Gia Cát Thủ lửa bốc lên đầu, nhảy dựng lên, la hét với hắn: “Ngươi còn ngồi đây làm gì hả? Được, ngươi thích ngồi thì cứ ngồi!”
Nói rồi chạy tới đầu khác của cổng vòm, Huyền Ảnh cũng đứng dậy đi theo, Gia Cát Thủ lại đổi chỗ, mặc kệ hắn đổi tới đâu Huyền Ảnh đều theo tới đó như hình với bóng.
Kinh Niên chống má nghiêng đầu xem trò vui, Lô Hoài Nhâm cau mày nói: “Ngươi xem tiểu đạo sĩ kia đi, giống hệt quả bóng khí, chúng ta chẳng qua chỉ trêu hắn chút xíu, có đáng để giận dỗi thế này không?”
Điện Hạ cười cười: “Thủ lão đệ còn nhỏ tuổi, không hiểu được thế thái nhân tình, tính tình cũng hơi ngay thẳng.”
Kinh Niên nhìn hai bóng người một trước một sau, chậm rãi thở hắt ra: “Tính tình ngay thẳng cũng không tồi.” Sau đó ngoảnh mặt sang Điện Hạ: “Ngài lại bắt Huyền Ảnh làm việc khổ sai, biết rõ Huyền Ảnh không nói được câu nào có ích, sao không tự đi dỗ tiểu đạo gia đi?”
Điện Hạ rũ mắt, vẻ mặt như cười như không: “Muội… chẳng lẽ đang đau lòng sao?” Giọng điệu có vẻ thờ ơ, nhưng bàn tay cầm quạt đã siết tới độ khớp ngón tay trắng bệch.
Tất nhiên Kinh Niên nhìn ra vẻ khẩn trương của y, nhưng vẫn vờ như không phát hiện ra, tầm mắt vẫn đuổi theo hai người kia như trước: “Đau cho Huyền Ảnh? Hay là đau cho Gia Cát Thủ?” Nhìn thêm một lúc mới quay đầu ngắm mặt nước, liếc qua khóe mắt nhìn thấy Điện Hạ đang nín thở chờ đợi, trong lòng thở dài một hơi, buồn bã nói: “Ta đang đau cho mình.”
Sau đó chưa đợi y lên tiếng đã bồi thêm: “Điện Hạ, ngài không định đợi tới mai thật chứ?”