Lại nói, sau khi thương thế đã tạm bình phục, quần tăng lại phát hiện ai nấy đều bị trúng độc. Chất độc tuy không dữ dội nhưng mỗi khi vận công, tất cả đều thấy tâm can đau nhói, chân tay lại uể oải, thân thể mỏi mệt, chân khí bế tắc. Chất độc này tuy không ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày, nhưng khiến quân tăng không thể chiến đấu. Đúng là “Phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí” a. Quần tăng đành tiếp tục nán lại hang động tìm cách trục độc, vì với tình trạng thế này mà ra ngoài, nếu lỡ gặp phải cường địch thì sẽ lâm đại nạn.
Thời gian thấm thoát trôi qua …
Quần tăng chẳng nhớ bọn họ đã lưu lại trong hang động bao lâu rồi, nhưng đến giờ chất độc vẫn không thể giải trừ được. Không còn cách nào khác, mọi người đành liều dắt dìu nhau ra ngoài, tìm đường trở về Thiếu Lâm Tự.
Ra đến bên ngoài, quần tăng mới chợt nhận ra cả bọn hiện đang ở một nơi núi non hiểm trở, đồi núi chập chùng, không thể nào phân biệt đường lối. Lúc trước, vì bị truy đuổi gắt gao nên cả bọn vừa đánh vừa lui, chẳng kịp phân biệt đường lối. Nay chẳng biết đang ở chốn nào, cả bọn đành phải lần mò tìm cách rời khỏi nơi này.
Khi bóng đêm buông xuống, quần tăng đến một sơn cốc nhỏ, có thể gọi là tử cốc vì dưới chân toàn là cát đá, chẳng có một loại cây cỏ nào sống được. Đặc biệt, âm khí lan tràn khiến ai nấy đều lạnh người.
Giữa sơn cốc có một ngôi thần miếu xây bằng đá, tuy nhỏ nhưng cổ kính tráng lệ. Điều lạ lùng là ngôi miếu tọa lạc giữa một nơi hoang vắng thế này mà không hề đổ nát. Giữa cảnh lạnh lẽo của đêm đen, đó là nơi trú chân tốt nhất. Mọi người kéo nhau vào miếu nghỉ ngơi.
Vì đang lúc quẫn bách, ai nấy đều lo lắng buồn phiền nên không sao ngủ được. Mọi người đành tĩnh tọa tụng niệm kinh văn chờ trời sáng.
Trời đêm càng lúc càng lạnh.
Bỗng nhiên, cảnh đêm đen đang tĩnh lặng chợt nghe như có tiếng ma rên từ xa vọng lại. Tiếng rên ấy âm u lạnh lùng, tuy rất khẽ nhưng vang rền thật xa, xé toạt khung cảnh tĩnh mịch của đêm trường, khiến quần tăng cũng phải rợn người. Không Trí đại sư nhảy vụt ra khỏi ngôi miếu, đảo mắt quan sát xung quanh, nhưng chẳng thấy một ai.
Quần tăng cũng lũ lượt kéo nhau ra ngoài, ngơ ngác nhìn quanh.
Bỗng từ phía sau lại có tiếng ma rên như vừa rồi nổi lên. Kế đó, từ khắp bốn phương tám hướng lại nghe vang rền những tiếng kêu rên như vậy, lúc xa lúc gần, như phiêu du dìu dặt trên nền trời cao.
Quần tăng trong lòng kinh nghi, kéo nhau đi xem xét bốn phía, nhưng chẳng hề nhìn thấy một bóng người. Bọn họ không nghĩ hiện trạng khí lực không còn, dù có tìm thấy cũng làm gì nổi đối phương.
Vẫn Không Trí đại sư nóng nảy quát tháo :
- Yêu ma phương nào. Đã đến đây còn không mau hiện thân, lại giở trò ma quỷ định hù dọa ai.
Tiếng quát của đại sư vừa dứt thì một thanh âm kỳ lạ như ma rên quỷ khóc vang lên :
- Lũ thế nhân kia. Chẳng lẽ lũ ngươi không còn thiết sống nữa hay sao mà lại đi rời bỏ cõi nhân gian kéo nhau đến chốn Cửu U này.
Mọi người quay nhìn về phía thanh âm vừa cất lên, chợt thấy một quái nhân vận áo trắng đang ngồi vắt vẻo trên nóc ngôi thần miếu.
Quái nhân dung mạo quái dị, tóc xõa dài, trước ngực đeo lủng lẳng hai xâu tiền giấy đốt cho người chết, thật đúng với những lời dân gian thường đồn đãi : bạch y vô thường, u hồn dạ quỷ. Màu trắng nổi bật giữa bóng đêm càng gây thêm cảm giác thần bí âm u.
Không Minh đại sư lo ngại Không Trí đại sư chỉ vì tính nóng nảy mà sẽ sinh chuyện không hay, liền vội tiến tới một bước, chắp tay nói :
- A di đà phật. Xin bằng hữu cho hỏi nơi đây là địa phương nào ?
Bạch y quái nhân cất giọng cười âm u :
- Nơi đây là Vong Hồn Cốc, một trong những con đường ngắn nhất dẫn đến Cửu U Địa Phủ. Các ngươi đã đến nơi đây chắc hẳn là muốn gia nhập vào giới u hồn.
Không Minh đại sư nói :
- Sao bằng hữu lại nói vậy ? Bọn bần tăng bị lạc đường chứ không phải cố ý đến nơi đây.
Bạch y quái nhân cười lạnh nói :
- Các ngươi vẫn còn tại thế, sao dám xưng bằng hữu với bản tòa. Muốn chết lắm phải không ?
Không Trí đại sư trầm giọng nói :
- Các hạ hà tất phải giả ma giả quỷ như vậy làm gì. Chẳng hay các hạ là nhân vật nào trong giang hồ ?
Bạch y quái nhân cất giọng cười lạnh, rồi không trả lời mà lạnh lùng hỏi lại :
- Bây giờ vào giờ gì rồi ?
Đại sư không hiểu dụng ý của đối phương, ngửng đầu nhìn lên trời một lúc rồi mới trả lời :
- Canh hai vừa hết nhưng chưa đến canh ba hẳn. Các hạ hỏi thế làm gì ?
Bạch y quái nhân gật đầu nói :
- Các huynh đệ trong giới u hồn rất ưa nói đạo lý. Các ngươi vì lạc đường nên mới đến đây chứ không phải cố ý. Đáng lý phải bị truy hồn đoạt phách để nhập tịch vào chốn Cửu U. May mà giờ này canh ba chưa điểm, Diêm Quân còn chưa thăng điện. Bản tòa niệm tình các ngươi vô tri sơ phạm, nên đặc biệt khoan dung tha cho lần thứ nhất này. Chỉ cần các ngươi mau mau dời khỏi đây thì sẽ tránh khỏi lệnh truy hồn đoạt phách của đức Diêm Quân.
Không Trí đại sư cười lớn nói :
- Các hạ dựa vào đâu mà định bá chiếm khu vực này làm của riêng …
Không Minh đại sư kinh hãi ngắt lời :
- Bọn bần tăng không tìm được đường lối để ra khỏi chốn này. Chẳng hay các hạ có thể cho đến bái kiến Diêm Quân được chăng ?
Bạch y quái nhân lạnh lùng nói :
- Lũ ngươi bộ không còn thiết sống nữa ư. Dễ lắm. Dễ lắm. Để bản tòa dùng cái Đoạt Hồn Chung này đưa hồn các ngươi về tham bái Diêm Quân cho biết vậy.
Vừa dứt lời, gã đã lấy ra một cái chuông ngọc khẽ gõ chầm chậm từng tiếng một. Âm hưởng tuy không vang rền nhưng lại chấn động lòng người. Quần tăng bị tiếng chuông đập vào màng tai, ai nấy đều cảm thấy khí huyết nhộn nhạo, đau đớn không sao chịu nổi, hết thảy đều nhào lăn ra đất, ôm bụng lăn lộn nhăn nhó.
Bạch y quái nhân thấy thế thì lại cất lên giọng cười âm u quỷ quái. Nhưng rồi bỗng gã nhìn thấy một vật lấp lánh bên cạnh Không Minh đại sư liền vội dừng tay, lướt đến nhặt lên xem. Thân pháp của gã phiêu hốt như bóng u linh. Khoảng cách gần mười trượng mà gã chỉ khẽ nhún chân một cái là đã lướt đến nơi.
Thì ra đó là tấm kim bài của Huyền Đô Bát Cảnh Cung. Gã cầm tấm kim bài trên tay xem xét một lúc lâu, miệng khẽ lẩm bẩm :
- Linh Huyền chân nhân là bậc đại tiên, lẽ đâu lại có quan hệ với lũ vô tri này.
Hồi lâu, gã quay sang Không Minh đại sư hỏi :
- Lũ các ngươi có quan hệ thế nào với Huyền Đô Bát Cảnh Cung ?
Không Minh đại sư vội nói :
- Bọn bần tăng vừa rời khỏi Huyền Đô Bát Cảnh Cung, đến gần đây thì gặp cường địch truy đuổi nên mới chạy lạc đến chốn này.
Bạch y quái nhân gật gù nói :
- Bản tòa xem thấy dường như tất cả các ngươi đều đang trúng độc.
Không Minh đại sư nói :
- Vâng. Bọn bần tăng đều đã bị trúng độc nên chân tay đều rũ liệt, chân khí ngưng trệ, kinh mạch đứt đoạn, không thể nào vận công trục độc ra được.
Bạch y quái nhân gật đầu nói :
- Xem ra các ngươi cũng chẳng còn hơi sức đâu để rời khỏi chốn này.
Không Minh đại sư thở dài :
- Bọn bần tăng cũng rất muốn dời khỏi nơi đây, nhưng lực bất tòng tâm.
Giữa lúc đó, mọi người bỗng nghe thấy một giọng nói âm u từ xa đưa lại :
- Diêm Quân hiện sắp thăng điện. Đoạt Hồn Sứ Giả sao còn nấn ná ở đó làm gì. Lũ thế nhân sắp chết đang ở cạnh ngươi là ai vậy hả ?
Bạch y quái nhân cung kính nói :
- Kính bẩm Phán Quan đại nhân. Hai mươi thế nhân này vừa từ Huyền Đô Bát Cảnh Cung lạc bước đến đây. Hiện bọn chúng đang bị trúng độc rất nặng nên không thể dời khỏi đây được. Xin Phán Quan đại nhân định đoạt.
Giọng âm u lại vang lên :
- Bọn chúng đã là người có quan hệ với Huyền Đô Bát Cảnh Cung thì có thể khoan giảm một số quy tắc. Bản chức cho phép được tạm thời ở lại Cửu U Giới. Đoạt Hồn Sứ Giả hãy nhanh chóng giải quyết việc này, rồi thượng điện bẩm báo với đức Diêm Quân.
Tiếng nói càng lúc càng đi xa, nhưng thanh âm vẫn cứ văng vẳng bên tai mọi người. Bạch y quái nhân được gọi là Đoạt Hồn Sứ Giả trầm ngâm một lúc lâu, rồi mới nhìn quần tăng nói :
- Lũ người hãy theo bản tòa về U Hồn Ảo Điện. Chỉ cần được đức Diêm Quân gia ân thì một viên Vạn Diệu Đơn Sa cũng có thể trị khỏi bách độc.
Nói rồi gõ vào Đoạt Hồn Chung “boong, boong” ba tiếng. Quần tăng lập tức hôn mê bất tỉnh.
Không biết đã trải qua bao lâu.
Một tiếng quát lớn đột ngột đã khiến quần tăng giật mình hồi tỉnh. Cả bọn ngơ ngác nhìn quanh, thấy đang ở trước một thông đạo trong lòng núi. Vách đá được đẽo gọt trông như một cửa quan. Phía trên cửa quan, một tấm biển lớn do xương người ghép thành ba chữ đại tự : Quỷ Môn Quan.
Hai quái nhân trang phục hắc bạch phân minh đứng bên cạnh đưa mắt nhìn quần tăng nói :
- Lũ người hãy theo chúng ta.
Cả hai thân thể cao lớn, hình dạng cổ quái, giọng nói âm u lạnh lẽo rợn người. Một người da trắng bạch, nhợt nhạt không chút huyết sắc, vận áo trắng, tóc bạc trắng, trên cổ đeo chuỗi tiền giấy màu bạc. Người kia da ngăm đen, vận áo đen, tóc đen nhánh, trên cổ đeo chuỗi tiền giấy màu đen. Ánh mắt cả hai đều sáng rực và lạnh lẽo.
Quần tăng gượng đứng dậy, đi theo bọn họ tiến vào “Quỷ Môn Quan”. Bên trong thông đạo tối đen và ngổn ngang xương người, đôi chỗ lấp lánh ánh lân tinh. Đường đi thay vì trải sỏi thì lại được trải bằng xương trắng tạo nên cảm giác âm u rùng rợn như đang ở trong chốn mộ huyệt.
Đường đi dốc xuống bên dưới. Cuối thông đạo lại là một cửa quan, bên trên có một khuông biển đề bốn chữ : Cửu U Địa Phủ, cũng do xương người ghép lại mà thành, trên cửa có treo một hàng sáu chiếc sọ người, ánh sáng màu xanh nhạt mờ ảo từ bên trong tỏa ra chiếu sáng xung quanh tạo nên cảm giác âm u quỷ quái lạnh người.
Hai bên cửa quan, mỗi bên có treo một bức đối liễn viết rằng :
“Nhược hướng vũ lâm cầu tuyệt nghệ
Thà lai địa phủ bái Diêm Quân.”
Không Trí đại sư đại sư xem xong không khỏi cau mày, trong lòng cảm thấy không phục, bụng nghĩ thầm vị Diêm Quân này ỷ vào cái gì mà khí phách của hai câu đối liễn có vẻ nghênh ngang thế không biết.
Hai bên cửa quan có hai quỷ tốt cầm Truy Hồn Bổng canh gác. Một trong hai quái nhân dẫn đường nghiêm giọng nói với bọn quỷ tốt :
- Hắc Bạch Vô Thường phụng ý chỉ Diêm Quân độ dẫn người nhập Địa Phủ.
Nói đoạn rảo bước đi thẳng vào trong. Quần tăng cũng vội vã theo sau.
Vượt qua cửa quan là đến một khoảng trống rộng rãi trông như một quảng trường. Quần tăng đưa mắt quan sát cảnh vật xung quanh, bất giác cảm thấy lạnh cả người, không rét mà run, nhưng đồng thời cũng rất phục vị chủ nhân của nơi đây đã có thể dựng nên một cung điện quỷ phủ âm u, to lớn kỳ dị như thế này.
Bên kia quảng trường là một tòa đại điện, khung cảnh thâm u đầy vẻ khủng bố. Cửa sổ, cửa chính đều là những thanh xương người xếp lại với nhau tạo thành, giữa