“Ngày nào thu lại miền Trung thổ,
Chín châu chỉ tiếc chẳng sum vầy.”
Lại nói, trong lúc triều đình Kim Lăng khẩn cấp chinh tập binh mã, đồng thời ban chiếu cần vương, lệnh cho các trấn mang quân đội, vận lương thảo về kinh hỗ trợ triều đình chống lại Yên quân. Chỉ đáng tiếc, chiếu chỉ của triều đình lại không thể truyền được ra khỏi địa phận kinh thành. Các trấn lân cận Kim Lăng là Phụng Dương, Hồ Quảng (tức Lưỡng Hồ : Hồ Nam, Hồ Bắc) tuy cũng khởi binh, nhưng không những không ứng chiếu cần vương mà còn chặn đứng các ngả đường dẫn về kinh thành. Kim Lăng quân lực không hư, vô cùng nguy cấp.
Tháng tư, Yên quân đại phá quân triều đình ở Hoài Bắc. Bình An bị bắt, Từ Huy Tổ bị giết, thu hàng hơn 10 vạn. Quân số Yên quân tăng lên 25 vạn, rầm rộ tiến về phía nam đến được bờ bắc Trường Giang. Đến đây, nhìn cảnh sông nước mênh mông, Yên vương “vọng giang kinh thán”. Nam thuyền bắc mã, Yên quân không thạo thủy tính, cũng không có thủy quân, làm sao vượt sông. Nhìn Kim Lăng thành sừng sững bên kia sông, Yên quân tướng sĩ không khỏi than ngắn thở dài.
Đến lúc này, thứ tử Cao Tuất chợt nhắc nhở :
- Phụ vương. Trước đây Kim thúc có trao cho phụ vương một cẩm nang, bảo rằng khi đến Trường Giang sẽ dùng đến.
Yên vượng chợt nhớ ra, vội lấy cẩm nang mở ra xem. Trong đó là một lá thư giới thiệu với Tuần Giang Đô đốc Trần Văn ở Tam Giang Khẩu. Trần Văn chỉ huy một hạm đội lớn nhất mạn Trường Giang, có thể giúp Yên quân vượt sông. Yên vương cả mừng, vội phái Chu Cao Tuất mang thư đến Tam Giang Khẩu.
Tháng sáu, Trần Văn mang Trường Giang thủy sư cùng 1 vạn thuyền bè chinh tập được đến đưa Yên quân vượt sông. Hơn vạn thuyền bè cùng tiến, quang cảnh tráng quán vô cùng. Chỉ trong một ngày, 25 vạn Yên quân đã vượt sông thành công, tiến về phía Kim Lăng. Trong thành lúc này tuy còn được 10 vạn quân, nhưng đều là tân binh mới chinh tập, vẫn còn chưa quen cầm vũ khí, lương hướng thiếu thốn, sĩ khí toàn vô, làm sao chống nổi 25 vạn Yên quân tinh nhuệ. Tề Thái và Hoàng Tử Trừng đành ra lệnh cho quân dân tiến hành vườn không nhà trống, phá hết vườn ruộng, dời hết nhà cửa bên ngoài vào trong thành. Dân chúng bị bức dời nhà, kêu khóc như ri. Do không được bồi thường, cũng chẳng được hỗ trợ, đa phần dân chúng rất phẫn nộ, không chịu dời nhà mà đốt nhà luôn. Ngọn lửa hừng hực bốc cao, cháy lan ra cả bốn mặt thành. Quân dân không ai lo chữa cháy, mà điều bỏ chạy thật xa khỏi nơi hỏa hoạn. Việc thành phòng không sao tiến hành được.
Kim Lăng thành là kinh đô của Minh triều lúc này, được Hồng Vũ đế Chu Nguyên Chương cải danh thành Ứng Thiên Phủ, nhưng tên này không phổ biến, chỉ triều đình sử dụng, còn mọi người vẫn quen gọi nó theo tên cổ là Kim Lăng. Vì là kinh đô nên địa thế phồn hoa, ngay cả bên ngoài thành mà nhà cửa cũng san sát, nối liền đến tận chân thành. Do đó, một khi bị phóng hỏa, ngọn lửa đã cháy lan đến cả những kiến trúc trên mặt thành, xua đuổi thành phòng quân đi chỗ khác.
Thấy đại thế đã mất, Cốc vương Huệ và Đại tướng Lý Cảnh Long suất lĩnh bách quan mở cửa thành đón Yên vương nhập thành. Lúc ấy, Hoàng cung phát hỏa, Kiến Văn đế mất tích. Yên vương Chu Lệ cử hành táng lễ cho Kiến Văn đế theo nghi lễ Hoàng đế, sau đó đăng cơ xưng đế, niên hiệu Vĩnh Lạc, hiệu xưng Vĩnh Lạc đế.
Tin truyền về phương bắc, Thịnh Dung suất quân hướng Tam trấn đầu hàng. Thịnh Dung được Tây An trọng dụng, còn hơn 50 vạn quân bị Tam trấn chia nhau. Chỉ có Thiết Huyền nhất quyết tận trung với Kiến Văn đế, dẫn bản bộ kháng cự, chẳng bao lâu sau binh bại bị bắt, bị áp giải về Kim Lăng giao cho Vĩnh Lạc đế. Nhớ đến lần bị truy sát trước đây, Vĩnh Lạc đế cả giận, truyền xử ngũ mã phân thi.
Thế là, sau gần 3 năm chiến loạn, cõi Trung Nguyên cuối cùng cũng được thái bình. Yên vương Chu Lệ tuy đã đăng cơ xưng đế, nhưng quyền uy cũng rất hạn chế. Tổng đốc các trấn Thiểm Tây, Hà Nam, Sơn Đông, Phụng Dương, Hồ Quảng, Tứ Xuyên, Vân Quý ủng binh tự trọng. Ngọc Môn Quan rơi vào tay Thiên Hỏa giáo ở Đại Mạc. Triều đình chỉ còn kiểm soát Lưỡng Kinh, Sơn Tây, Lưỡng Quảng, Lưỡng Giang, Mân Chiết, cùng với trọng trấn Sơn Hải Quan mà thôi. Việc này tồn tại ngay từ thời Hồng Vũ đế Chu Nguyên Chương, Vĩnh Lạc đế lực bạc thế vi, chỉ đành chấp nhận hoàn cảnh hiện tại. Dù sao thì làm Hoàng đế vẫn oai phong hơn Yên vương.
...
Cõi Trung Nguyên, vùng duyên hải Quảng Đông, trên mặt biển xuất hiện một đội thuyền lớn từ phương nam đến. Những chiếc thuyền này đều treo cờ hiệu có biểu tượng Thánh Hỏa, đặc trưng của Hỏa giáo Ba Tư. Hạm đội này đúng là xuất phát từ Ba Tư, viễn độ đại dương mà đến đất Trung Nguyên. Người trên thuyền đều là tín đồ của Hỏa giáo.
Hỏa giáo là một tôn giáo cổ xuất hiện ở Ba Tư trước Cơ Đốc giáo hơn một thiên niên kỷ, được sáng lập bởi Đấng tiên tri Zarathushtra. Hỏa giáo cho rằng thế giới có hai bản nguyên đối lập nhau là Thiên Nguyên và Ác Nguyên, từ đó cũng có hai vị thần tối cao là Quang Minh Thần Ahura Mazda và Hắc Ám Thần Angra Mainyu. Nền tảng tín ngưỡng của Hỏa giáo được thể hiện qua cây luân lý trong Cổ kinh Ba Tư. Do vậy, những người bảo hộ tín ngưỡng, nghiên cứu kinh sách, được gọi là Bảo Thụ Vương. Thập nhị Bảo Thụ Vương gồm thứ nhất Đại Thánh, thứ hai Trí Tuệ, thứ ba Thường Thắng, thứ tư Chưởng Hỏa, thứ năm Cần Tu, thứ sáu Bình Đẳng, thứ bảy Tín Tâm, thứ tám Trấn Ác, thứ chín Chính Trực, thứ mười Công Đức, mười một Tề Tâm, mười hai Câu Minh. Tất cả đều là những học giả tinh thông giáo nghĩa, kinh điển, còn võ công thì không nhất thiết phải cao cường. Ví dụ như Đại Thánh, Thường Thắng, Trấn Ác có võ công cao tuyệt; nhưng Trí Tuệ, Chính Trực, Công Đức phải là những người đức cao vọng trọng hay mưu trí hơn người.
Nhìn thấy phía trước dần dần xuất hiện bóng dáng đất liền, Trí Tuệ Vương sắc diện lộ vẻ mừng rỡ. Trí Tuệ Vương là tước hiệu của người nhiều mưu trí nhất trong số các vị Bảo Thụ Vương, do đó thường cũng đảm nhiệm vai trò điều hành công việc trong giáo thay mặt cho giáo chủ. Hạm đội của Hỏa giáo đến Trung Nguyên không phải lần đầu, thông thạo đường lối, nhưng hành trình trên biển nguy hiểm khôn lường, phong ba bão táp có thể ập đến bất cứ lúc nào, thành ra khi nhìn thấy đất liền, những người đi biển đều mừng rỡ. Từ bờ biển phía nam Ba Tư, bọn họ đã mất đến nửa năm mới đến được nơi đây, hiện tại cuối cùng cũng đã có thể đặt chân lên đất Trung Nguyên xa xôi thần bí này rồi.
Vị Trí Tuệ Vương này chỉ mới cận lục tuần, không có tham gia chuyến đi đến Trung Nguyên lần trước. Thật ra trên toàn hạm đội, chỉ có vị giáo chủ tuổi quá thất tuần, mới là người duy nhất từng đến Trung Nguyên. Tuy vậy, giữa Ba Tư và Trung Nguyên vẫn có thương thuyền giao vãng, nên trên hạm đội không thiếu những thủy thủ giàu kinh nghiệm, giúp cho hành trình được thuận lợi hơn.
Đối với đất Trung Nguyên, Trí Tuệ Vương cũng giống như nhiều người Ba Tư khác, sung mãn hiếu kỳ, đồng thì tưởng tượng thành một đất nước rộng lớn, giàu mạnh, và đặc biệt là không có hải quân. Đúng là từ trước đến giờ, các triều đại Trung Nguyên chưa từng phát triển hải quân, chỉ có thủy sư hoạt động trên các sông hồ. Người Trung Nguyên dường như đối hải dương đặc biệt sợ hãi, khác hẳn người phương tây.
Hít thở không khí trong lành, Trí Tuệ Vương quay nhìn mấy vị Bảo Thụ Vương khác đang từ trong khoang thuyền đi ra, mỉm cười nói :
- Đại Thánh, Công Đức, Bình Đẳng. Ta nghĩ chúng ta sắp được đặt chân lên đất liền rồi. Không biết nơi đó có giống như trong sách miêu tả hay không ?
Bình Đẳng Vương cười nói :
- Ta nghĩ sẽ rất giống. Những sách đó đã lưu truyền hơn trăm năm nay rồi, chưa nghe có ai phàn nàn gì về nó cả.
Khi hạm đội của Hỏa giáo Ba Tư xuất hiện phía ngoài hải ngạn Quảng Đông, những ngư dân ra ngoài biển đánh cá đột nhiên nhìn thấy một hạm đội lớn xuất hiện ngoài khơi, đều giật mình sợ hãi, vội vã bơi thuyền quay trở vào đất liền. Nhiều người vì quá khẩn trương, quên cả việc kéo lưới lên, bỏ mặc lưới cá lại đó mà đào tẩu.
Đại Thánh Vương chỉ về phía đám ngư dân đó, cười ha hả nói :
- Bọn họ trông thật nghèo khổ. Quần áo rách tả tơi cả. Chẳng lẽ đó lại chính là người Trung Nguyên hay sao ?
Trí Tuệ Vương đưa mắt nhìn Đại Thánh Vương, vô ngữ. Chỉ nhìn thấy đám ngư dân nghèo khổ là cho rằng người Trung Nguyên đều nghèo khổ ! Nếu bọn họ thực sự nghèo khổ, làm sao có thể chế tạo ra tơ lụa, gốm sứ, trà diệp và nhiều vật phẩm quý báu khác. Những thứ đó không phải là vật dụng dành cho người nghèo khổ nha !
Bọn họ cho thuyền đuổi theo đám ngư dân kia. Theo cách đó, bọn họ khỏi cần hỏi đường mà cũng có thể đến được hải cảng, nơi có người Trung Nguyên sinh sống. Sau một lúc, bọn họ đã đuổi đến gần bờ biển. Đến lúc này mới thật là vô ngữ. “Hải cảng” trong mắt bọn họ đơn giản không sao kể siết, chỉ là một bến thuyền nhỏ, dành cho những tiểu ngư thuyền của thôn dân neo đậu. Thôn chài phía trên chỉ có vài chục nóc nhà, hoàn toàn là một tiểu thôn. Với bến thuyền đó, những hải thuyền cỡ lớn của hạm đội Ba Tư không sao cập bến được, cạn quá.
Trí Tuệ Vương thở dài ngao ngán :
- Chúng ta không nghĩ đến sai biệt giữa hải thuyền của chúng ta và ngư thuyền của bọn họ.
Lúc này, từ trong khoang thuyền, một vị lão bà chống gậy bước ra. Lão bà đầu đội hoàng quan, y phục hoa lệ, chính là giáo chủ của Hỏa giáo Ba Tư. Xung quanh lão bà còn có 8 vị Bảo Thụ Vương khác bảo hộ. Lão bà bảo bọn Trí Tuệ Vương :
- Không việc gì đâu. Chúng ta cứ đi men theo bờ biển, thế nào cũng gặp được hải