Liễu rủ ven đường.
Cành lá đụng vào xe ngựa vang lên những tiếng xào xạc.
Đường núi vắng tênh.
Người đánh xe khẽ huýt gió lên một đoạn dân ca cũ của tỉnh Phúc Kiến
Nhịp điệu bài hát nghe như quen thuộc lại như lạ lẫm. Ca từ bài hát chẳng cần cất lên nhưng cũng tạo cho người nghe cái không khí vui tươi như lúc hăng say lao động cho vụ mùa. Nếu nhắm mắt lại, người nghe chỉ cảm thấy lạc lối trong thiên nhiên hoang sơ hùng vĩ, chết lặng trước vẻ đẹp của đất trời.
Có điều mở mắt ra thì lại là đằm đằm oai khí.
Hai bên xe là hai hàng lính tráng đi đều bước. Một hàng mặc trang phục giống như viên lĩnh vạt ngắn, nhưng tay áo không thụng mà bó chặt lại, phía trước có đeo một lớp giáp thân, cố định lại bằng dây nịt và hai miếng lót hai bên. Trên đầu họ đội mũ bó, quây lại như cái khăn, phía sau có một vạt rũ xuống che hết đuôi tóc.
Hàng lính còn lại mặc quần áo vải ở trong và áo giáp nặng bên ngoài, mũ chóp cao và có lớp giáp bọc xuống phía sau và hai bên. Ở phần chân của giáp nặng được xẻ ra hai nửa để binh lính có thể vận động dễ dàng.
Đi phía trước hai hàng lính là đôi ngựa hắc bạch song song. Trên con hắc mã là một kẻ trùm áo đen che gần như kín hết cả người. Hắn có khuôn mặt hốc hác như bị bệnh, đôi mắt vô thần, một tay cầm dây cương, một tay cầm thứ gì đó giống như một quả cầu pha lê – kiểu mà các nhà chiêm tinh học hay sử dụng để dự đoán tương lai.
Bên cạnh hắn, trên con ngựa màu trắng là một người trung niên khoảng tứ tuần, khuôn mặt nghiêm túc, con mắt liên tục giáo giác nhìn quanh. Nếu để ý kỹ thì sẽ thấy hắn có đôi nét giống với lão bá hộ.
Trong xe đang truyền ra tiếng cười nhàn nhạt, phát ra từ một người trung niên. Ông ta có thân hình mảnh dẻ, hông dắt trường kiếm, mặc một chiếc áo bào trắng kiểu thư sinh, khuôn mặt điển trai cực kỳ. Trên tay ông ta cầm một quân cờ vây trắng, nhẹ nhàng đặt xuống bàn, tay kia vung vẩy quạt miệng nói:
“Thái Úy trên đường đi bất ngờ đổ bệnh, không thể tiếp tục theo đoàn xa giá. Tiểu quan chỉ đành phụng mệnh bồi tiếp, đại nhân không có điều chi bất mãn chứ?”
Người kia có thân hình nhỏ nhắn, lưng hơi gù xuống, khuôn mặt dài như mặt chuột. Hắn đang hé đôi mắt ti hí nói bằng cái giọng bén nhọn:
“Bệnh tật vốn dĩ là do ông trời, ta làm sao có thể trách được.”
“Sứ giả đại nhân, đã đi hết một vòng nước Nam sông núi, ngài cảm thấy thế nào?”
“Nước Nam cảnh trí tuy đẹp nhưng đất dài mà hẹp, con người nghèo đói nhơ nhớp, làm sao sánh được với khí thế bàng bạc của Thiên Triều? Tỉ như bàn cờ này vậy, quân trắng chỉ biết co cụm lại một góc mà phòng thủ, để mặc cho quân đen triển khai trên khắp bàn cờ. Đây âu chính là tất tử cục thế, thua một nước đi còn cứu vãn được, thua cả thế trận chính là hàng luôn ván cờ.”
Người trung niên mỉm cười, tay lại đặt thêm một quân xuống, miệng đáp:
“Nước Nam ta từ Hồng Bàng thời đại lập quốc, trải qua lịch sử mấy ngàn năm, tuy không ít lần bị các nước xung quanh đô hộ, nhưng phong tục tập quán vẫn vững vàng, người dân chưa bao giờ quên cái gốc nguồn cội. Xưa có Nam Việt Vương hùng tài đại lược, xưng đế hiệu, kình chống Lã Hậu, ngồi ngang hàng với Đại Hán một thời. Nay có đức Thái Tổ thừa hưởng mệnh trời, tay vung thanh thần kiếm mà định cả giang sơn. Nhân tài tầng tầng lớp lớp, Lý Thường Kiệt chống tống bình Chiêm, Hưng Đạo Vương đạp bằng Mông Cổ. Nói đâu xa chỉ ngay thời trước, Đinh Liệt, Nguyễn Xí, Ức Trai đại nhân đều là bậc anh hùng công cao chí vĩ. Thử hỏi một nước mà quân hiền, tôi giỏi, nhân dân đồng lòng như vậy, há có thể là nhược quốc?”
“Lương Trực Học Sĩ nói như vậy là cho rằng Đại Việt của các hạ bây giờ sánh ngang với Thiên Triều của bổn sứ?”
“Thiên Triều tại thượng, nước ta vẫn giữ lễ nghĩa bề tôi, tự nhận là chưa bao giờ trái với đạo lý luân thường. Những mong sứ giả đại nhân tấu lời lẽ phải, Hoàng Đế bệ hạ anh minh thần võ mà không động binh biến can qua để không làm khổ bề tôi trăm họ. Ấy là cái đức của Thiên Tử rọi sáng muôn đời, họ Lương tôi đây thay mặt muôn dân cảm tạ ơn nghĩa.”
Tên sứ giả cười khục khặc:
“Ngươi miệng phun chân ngôn, đánh ba tấc lưỡi cũng không giấu được sự thật là nước Nam đã xâm chiếm Chiêm Thành. Lần này đã tới được nơi thị sát cuối của chuyến đi, để xem ngươi có thể lấy cớ chi mà lấp liếm.”
“Sứ giả đại nhân nói như vậy là không đúng rồi. Hơn trăm năm trước, Chế Bồng Nga vua nước Chiêm xâm phạm Đại Việt, cướp phá Thăng Long, giết người vô số, hủy hoại kinh thành, không tội ác nào mà không phạm phải. Lúc đó bổn quốc sai sứ cầu viện, Thiên Triều lấy lý do quốc gia vừa mới thành lập, còn phải kình chống với Bắc Nguyên mà từ chối tương cứu. Nay Đại Việt ta cất binh báo thù, giặc cũng đã dẹp yên được sáu bảy năm, từ mấy năm trước Trần Thật đi sứ sang cũng không kết luận được điều gì bất lợi cho Đại Việt. Giờ Thiên Triều lại một lần nữa cho sứ hạch tội, chẳng hiểu là có ý gì?”
“Việc đại sự thiên hạ, há một cái hàn lâm học sĩ nhỏ nhoi ở tiểu quốc như ngươi có thể hiểu được, chỉ nên thành thành thực thực mà quỳ xuống nghe sai xử của Thiên Triều mới là điều đúng đắn, chớ có vì chút cảm xúc bộc phát nhất thời mà gây họa cho nước nhà.”
“Họ Lương tôi đỗ trạng nguyên vào niên hiệu Quang Thuận năm thứ ba, tới bây giờ làm quan trong triều đã mười mấy năm, tự nhận mình không có tài cán gì nổi bật nhưng lòng vẫn luôn trung với nước nhà. Nếu vì sợ hãi mà để cả dân tộc luồn cúi thì làm sao xứng đáng với hoàng ân của bệ hạ, làm sao có mặt mũi mà nhìn liệt tổ liệt tông. Chuyện của thiên hạ tuy lớn, mỗi con người chỉ như một quân cờ nhưng ngược lại mỗi quân cờ ấy mới là thứ cơ bản tạo nên thiên hạ. Lòng người đều giác ngộ lý tưởng thì lo gì mà chuyện thiên hạ không thành đây?”
Người trung niên đặt quân cờ xuống, thần cơ diệu toán, tới nước đi này thì đã đảo lộn hoàn toàn cục diện ván cờ. Quân trắng tuy dồn tụ về một góc nhưng thế trận cứng cáp, rõ ràng, e rằng khó lòng mà công phá. Quân đen tuy chiếm dữ ưu thế nhưng thế quân tản mác, đông mà không tinh, quân trắng chỉ cần đi thêm đúng ba nước nữa là sẽ xé trận hình của quân đen ra làm đôi. Sứ giả khuôn mặt trắng bệch, đang định hạ hai quân cờ chịu thua thì ở ngoài đã có tiếng quân báo:
“Bẩm các vị đại nhân, chúng ta đã tới địa phận Quảng Nam Thừa Tuyên.”
Chỉ thấy ở bên ngoài, quan huyện đang dẫn đầu người dân của mấy làng xung quanh quỳ đón nghênh tiếp đoàn sứ. Quan huyện là một người hơn ba mươi, nước da đen nhẻm, chắc cũng xuất thân từ tầng lớp nông dân mà ra. Hắn quần áo mũ quan nghiêm chỉnh, đang theo lễ nghi mà lạy ba lạy dập đầu, dân làng cũng vội làm theo. Chỉ nghe một người lính quan tuyên đọc:
“Cung nghênh xa giá của sứ thần Đại Minh triều Chu Hy và quan tòng Tam Phẩm Thừa Tuyên Sứ Lương Thế Vinh đến thị sát xứ Quảng Nam.”
Hàng người quỳ phía dưới cũng nhanh chóng đọc lại. Vốn lần này đoàn sứ bộ là do Thái Úy Lê Niệm trong triều đón tiếp nhưng Thái Úy tuổi cao sức yếu, trên đường đi không khỏi bệnh tật liên miên. Vậy nên vua mới tấn phong cho quan Lục Phẩm Trực Học Sĩ Lương Thế Vinh, vốn là người nhạy bén, thông minh, làm chức tòng Tam Phẩm Thừa Tuyên sứ mà đón tiếp sứ người Hán.
Đây là lần đầu tiên Lương Thế Vinh ra ngoài sau một thời gian dài biên soạn cuốn Đại Thành Toán Pháp, cũng là lần đầu tiên ông đi vào trong Nam. So với kinh đô và các vùng đất lân cận sung túc phồn vinh ở ngoài Bắc, cuộc sống của con người các Thừa Tuyên phía Nam khốn khó hơn nhiều, một phần là vì chiến tranh, một phần là vì khắp nơi thường xuyên có giặc giã.
Lương Thế Vinh mở quạt gấp ra, trên đó viết bốn chữ rồng bay phượng múa “Kinh Bang Tế Thế” lòng không khỏi trĩu nặng.
Chợt từ trong đám đông ở phía sau đi ra một người đàn ông đói rách, mặc quần áo theo kiểu dân Chiêm. Quan Huyện vừa thấy người này thì đã vội lên tiếng cho sai nha ngăn hắn lại. Tiếc thay, cả đám sai nha còn đang quỳ lạy một chỗ, hoàn toàn không kịp nghe theo lệnh quan. Người kia sải chân rất dài, chốc lát đã tới đứng ngay trước đoàn xa giá. Viên thị vệ cưỡi ngựa trắng liền đưa ngang kiếm ra ngăn cản, người kia tâu:
“Tiểu nhân là Ba Mỹ Bài Ma Diệp, người gốc Chiêm, có án oan muốn xin quan xét xử.”
Chu Hy nhìn Lương Thế Vinh đắc chí chờ xem kịch vui, Lương Thế Vinh từ xa đáp:
×— QUẢNG CÁO —
“Ngươi có oan khuất gì, cứ trình bày ra đây để các quan xem xét.”
Người kia dập đầu hai lạy, miệng không khỏi lên tiếng:
“Tiểu nhân thường trộm nghe quan Trạng là người có tài hoa xuất chúng, chỉ là trong triều hay trọng dụng những khai quốc công thần cũ và thân gia, không có lẽ công bằng, nên người vẫn chưa có cơ hội thăng lên quan chức. Nay được gặp…”
“Điêu dân to gan, sao ngươi dám phát ngôn bình luận chuyện của triều đình?” – Viên thị vệ hét.
Lương Thế Vinh cản tay thị vệ lại nói:
“Được rồi, ngươi không cần tâng bốc ta, cứ vào thẳng vấn đề của ngưoi đi.”
Ba Mỹ Bài Ma Diệp lại sụp xuống lạy:
“Chẳng là dạo trước nhà tiểu nhân có nuôi một con voi trắng, vốn là để buôn bán với thương gia của Đại Việt. Có điều, từ sau khi Chà Bàn thất thủ, nước mất nhà tan, tiểu nhân bị bắt đem giao cho ông bá hộ làng Nam Ô làm kiếp nô lệ, khổ cực trăm bề. Cách đây hai năm, gia đình cũ tìm được tiểu nhân, có thương lượng với ông bá hộ, dùng con voi trắng để đổi lấy một số ruộng đất của nhà lão, cho tiểu nhân được làm kiếp nông dân tự do. Con voi trắng nặng bao nhiêu cân thì có thể đổi được bấy nhiêu diện tích ruộng đất. Ban đầu lão cũng đồng ý, điểm chỉ vào khế ước, giấy trắng mực đen. Có điều, lão nhận voi rồi cứ lần lữa, lấy lý do là không cân nổi con voi, không chịu cấp cho tiểu nhân ruộng đất. Gia đình tiểu nhân kiện lên quan huyện thì đều bị bắt giam lại. Không biết sống chết thế nào. Mong quan lớn soi xét!”
Chu Hy ở bên cạnh góp lời:
“Đó là do gia đình ngươi ngu xuẩn, bao nhiêu đất thì cứ lấy đại đi, lại vẽ vời ra chuyện cân voi cho thêm rách việc. Bị như vậy thì âu cũng đáng lắm.”
“Bẩm đại nhân, người Chiêm chúng tôi nuôi voi đã lâu đời, có tục lệ dựa vào kích thước để ước định cân nặng. Dù có thể không chính xác hoàn toàn, nhưng ai nấy đều đồng ý xem như tiêu chuẩn mà định theo. Ai dè sang bên đây thì lão bá hộ trở mặt không chịu, rõ ràng chỉ là lấy đại một cái cớ để ăn chặn nhà tiểu dân. Đại nhân minh giám.”
Lương Thế Vinh cho truyền lão bá hộ lên. Lúc đi ngang qua thì người thị vệ khẽ nháy mắt với lão một cái. Lão quỳ sụp xuống, khóc lóc nói:
“Bẩm đại nhân, hắn nói thế là oan cho tiểu nhân quá. Vì giải quyết việc này một cách chính xác, công bằng, tiểu nhân đã sai người chạy tận ra ngoài kinh đô, chạy vạy khắp nơi để hỏi thăm một người đo lường chuyên nghiệp, phí tổn thuê, ăn ở đi lại cũng không hề thấp một chút nào. Ai dè những người dở thì không biết làm, người giỏi thì lịch trình bận bịu, mãi vẫn chưa có tin tức, chứ tiểu nhân nào dám chậm trễ việc này.”
Tên thị vệ cũng quay lại nói:
“Bẩm đại nhân, lão bá hộ và tiểu nhân vốn là chỗ quen