Tiếng chuông nhà thờ vang vọng từng hồi.
Cô bé con choàng tỉnh giấc trong vòng tay ấm áp của người mẹ. Giọng người mẹ vang lên từ tốn và ngọt ngào:
“Chúng ta tới nơi rồi con yêu.”
Con bé ngáp dài một cái, đưa đôi tay nhỏ nhắn vòng qua cổ mẹ. Người mẹ bồng nó lên, tay khẽ vuốt vuốt sau lưng, trên môi nở trọn vẹn nụ cười. Đây là một cái giáo đường hết sức to lớn, bốn góc bên ngoài được thiết kế bốn cột trụ tròn vĩ đại, hàng chục người ôm cũng không xuể. Đội lên trên đầu chúng là một dãy hành lang có hình bình hành.
Dãy hành lang này được kết nối vào tòa nhà chính trung tâm bằng những hành lang nhỏ hơn. Khu nhà trung tâm có kiến trúc cực kỳ xa hoa lộng lẫy, trang hoàng lên phía trên đỉnh của nó là một hình khối elip vừa vặn bị cắt mất khoảng một phần tư dưới đáy để khít vào phần đỉnh của giáo đường.
Phía bên trong đã có sẵn rất nhiều người đang ngồi nghe cha xứ ở trên giảng đạo. Người mẹ đặt con bé xuống ghế bên cạnh, hai tay chắp lại, mắt nhắm, đầu khẽ cúi một cách thành kính. Những lời nói đang vang lên ở kia có vẻ như quá khó hiểu đối với một đứa trẻ, đôi mắt con bé lờ mờ nửa mê nửa tỉnh.
Sau khi cha xứ kết thúc cũng đến thời gian của đội hợp xướng thánh ca. Tiếng hát to, đều và truyền cảm, không gian xung quanh vương lại một chút gì đó mơ màng. Con bé giật giật gấu áo của người mẹ hỏi nhỏ:
“Hay quá, họ hát mà con nghe cứ như ở sát bên tai mình vậy.”
“Đó là điều kỳ diệu của một mái vòm hình elip đấy con gái ạ. Dù cho âm thanh dội theo hướng nào thì quãng đường tới tai con cũng sẽ như nhau. Vậy nên con sẽ nghe với chất lượng cao nhất. Đó gọi là hiện tượng cộng hưởng.”
“Họ đang hát về cái gì vậy hả mẹ?”
Người mẹ mỉm cười, xoa xoa đầu cô bé:
“Đó là một câu chuyện xưa. Con có muốn nghe mẹ kể không?”
“Mari muốn nghe lắm ạ, mẹ mau kể cho Mari đi.”
Giọng người mẹ vang lên đều đều, hòa lẫn vào trong tiếng hát thánh ca, nhuộm lên một màu sắc thần thoại và cổ tích:
“Chuyện kể rằng vũ trụ thuở mới được sinh ra chỉ toàn là bóng tối, những sinh vật và trí thông minh đầu tiên của vũ trụ đều chỉ có một giác quan duy nhất là thị giác, chính là đôi mắt của con đó. Không kẻ nào trong số này có thể nhận biết được sự tồn tại của chính mình hay là của vũ trụ cả. Nếu vẻ đẹp của vũ trụ không được ai biết đến thì có thực là nó vẫn luôn tồn tại hay không?”
“Con không hiểu, nói thí dụ như, Mari vẫn luôn tồn tại, dù cho có ai biết tới Mari hay không thì điều đó cũng không quan trọng phải không? Mari vẫn luôn tồn tại đây nè, có thay đổi gì đâu.”
Người mẹ chải lại mái tóc hơi rối lên lúc con bé vung tay, nhẹ nhàng đáp:
“Khi lớn lên Mari của mẹ sẽ hiểu.”
Đoạn bà lại cất lời:
“Rồi một ngày nào đó không biết trong vô tận quá khứ, những vị thần đầu tiên được đản sinh ra. Họ là những vị thần của màu sắc, những kẻ đã tô màu cho vũ trụ này. Thế là từ bóng đêm bất tận, lần đầu tiên các sinh vật nhận biết được sự tồn tại của mình và của vũ trụ. Đó là một thế giới tuyệt đẹp, có những dải ngân hà, tinh hệ, vì sao cùng vô vàn những sự kiện kỳ thú mà có dành cả cuộc đời cũng không thể khám phá được hết.”
“Khi ánh sáng và sắc màu nảy sinh, sức sống tràn ngập rực rỡ. Những kẻ giống nhau tập hợp lại thành cộng đồng, những cộng đồng phát triển thành khu dân cư, khu dân cư nở rộ ra các thành phố, thành phố bồi đắp nên những nền văn minh. Những nền văn minh vươn dài cánh tay của họ xuyên qua các thiên hà.”
“Đi cùng với nó là mâu thuẫn giữa các chủng tộc với nhau và bản thân nội bộ các chủng tộc. Chiến tranh xảy ra, chết chóc lan đến, những thành phố bị phá hủy, cả mảnh thời không trở nên lụi tàn. Khi các chủng tộc làm chủ được quy luật của vũ trụ, sức mạnh của họ trở nên to lớn tới nỗi một cá nhân cũng nắm trong tay những thứ vũ khí có thể hủy diệt cả nền văn minh. Kết thúc tất yếu là khi mọi thứ trở lại điểm bắt đầu. Quy luật xác suất khiến điều đó không thể tránh khỏi.”
“Các vị thần lại một lần nữa can thiệp, họ cùng với tất cả những nền văn minh đủ phát triển trong vũ trụ cộng đồng lập nên một thỏa thuận chung, để ngăn ngừa sự sống tự hủy diệt chính mình. Đó là sự ra đời của bản tuyên ngôn chín điều nổi tiếng nhất toàn vũ trụ trước khi Đại Diệt Đa Chủng xảy ra - Trật Tự Thệ Ước. Nó được trực tiếp giám sát bởi các vị thần.”
Con bé nguây nguẩy đầu đáp lại, giọng điệu chắc nịch:
“Không đúng, con nghe cô giáo kể rằng Hiến Quốc của chúng ta là những sinh vật có trí khôn duy nhất tồn tại trong vũ trụ này. Bên ngoài Vách Tường không có gì khác ngoài quái vật và chết chóc cả.”
Bà mẹ mỉm cười gật đầu:
“Trí thông minh tạo cho sinh vật bản ngã. Bản ngã là nguồn gốc cho sự tham lam. Mà tham lam dẫn tới mọi tội lỗi cấm kỵ khác trong cuộc đời. Hơn một vạn năm trước, một kẻ tham lam vô độ như thế đã vượt qua ranh giới cuối cùng của cái ác. Một nhà khoa học điên rồ tới từ một chủng tộc bậc thấp gọi là Ángelos đã phạm phải điều không bao giờ có thể tha thứ được… đó là giết chết một vị thần.”
“Thần linh mà cũng có thể chết sao hả mẹ?”
“Hắn đã làm điều đó như thế nào có lẽ sẽ không bao giờ chúng ta có thể biết được rõ ràng. Chỉ là cái xác đó, nó bị nguyền rủa bởi những quy luật tối cao của vũ trụ này. Từ đó nảy sinh ra thứ sinh vật ghê tởm nhất trong không gian – loài Quái Thú Vũ Trụ. Chúng không có hiểu biết, không có ngôn ngữ, sống một cuộc sống hoàn toàn dựa trên bản năng. Vì được sinh ra từ máu thịt của một vị thần nên chúng mạnh mẽ và gần như bất tử. Chỉ sau một thời gian rất ngắn, toàn bộ văn minh vũ trụ bị hủy diệt.”
Con bé ôm chặt lấy người mẹ, đôi mắt mở to tròn, người mẹ tiếp tục từ tốn nói:
“Tổ tiên của Hiến Quốc Namuh chúng ta, một người gầy gò nhỏ bé, đam mê nghiên cứu ma pháp có tên là Mada, vốn cũng chỉ là người bình thường khi Đại Diệt Đa Chủng xảy đến. Tất cả người thân của ông đã qua đời dưới hàm răng sắc nhọn của Quái Thú. Ông cầu nguyện tới các vị thần nhưng họ đã quay lưng bỏ đi. Họ đã mất niềm tin hoàn toàn vào các chủng tộc có trí tuệ. Ông van nài các chủng tộc bậc cao trong vũ trụ nhưng họ quá bận bịu với việc của riêng mình để có thể cứu giúp loài người thấp bé. Trong giây phút tuyệt vọng nhất cuộc đời, ông đã khám phá ra được bản chất của nó, Thập Nhất Ma Pháp tối cao Swip Tohras U Na. Lời mong ước cháy bỏng của ông đã được các vì sao đáp trả lại.”
Con bé nhìn ngắm lên hình ảnh to lớn được vẽ ở chính diện bức tường trung tâm của giáo đường. Trên đó một người bé nhỏ đang quỳ một gối cúi đầu, hai tay chắp lại hướng về phía những ngôi sao phát sáng. Trong lòng dấy lên một niềm ngưỡng mộ thơ ngây. Người mẹ cũng không khỏi nhìn theo cùng một phương hướng.
…
“Đó là cách mà lần đầu tiên tôi biết được từ mẹ của mình về sự thật của thế giới này” – Người đàn bà trung niên lên tiếng.×— QUẢNG CÁO —
Người đàn bà đang đứng trước một lớp học gồm toàn những đứa trẻ con tầm năm, sáu tuổi đang trợn tròn mắt mà nghe kể câu chuyện này. Từ phía dưới cuối lớp có một cánh tay đưa lên. Nó to lớn và rắn chắc trông hết sức lạc lõng khi được đặt trong hoàn cảnh như thế này. Người đàn bà mỉm cười:
“Cậu có câu hỏi gì à cậu Trần Ngọc?”
Thuốc Nổ bật lên điều mình quan tâm nhất lúc này:
“Thưa giáo sư Mari, Tưởng Giới là gì?”
Người đàn bà, hay gọi đúng hơn lúc này là giáo sư Mari, không trả lời cậu ngay mà nói với cả lớp:
“Được rồi, cũng đã đến lúc chúng ta xem kết quả thí nghiệm lúc ban sáng rồi các em.”
Mọi người rời khỏi bàn ghế, bước ra khỏi lớp, đi tới một cái sân rộng rãi bên ngoài. Thuốc Nổ nhìn lên bầu trời có thể thấy rõ ràng bóng của hành tinh lạnh lẽo băng giá mà cậu từng đi tới tận sâu vào trong lõi kia. Nó in hằn lên chiếm cũng phải một phần ba tầm nhìn.
Ở đây không có bầu khí quyển mà có thể nhìn trực tiếp được màu tối đen của nền vũ trụ, chỉ ngăn cách bởi một mái vòm trong suốt chính giữa. Cậu đang ở trên một cái tiểu thiên thạch nhỏ quay xung quanh hành tinh lạnh lẽo kia. Đây cũng là nơi tọa lạc của Học Viện.
Giáo sư Mari nói với lũ trẻ:
“Nào, các con lấy nhiệt kế ra và ghi lại chênh lệch nhiệt độ đi nào.”
Được chôn dưới mặt đất ở trong sân là la liệt những cái nhiệt kế, phía trên đầu đều gắn một gương cầu lồi để hội tụ trực tiếp ánh sáng Mặt Trời vào trong chúng. Thí nghiệm này chỉ có thể tiến hành vào ban ngày mà thôi. Ngày đêm ở cái tiểu thiên thạch này hết sức đơn giản, nếu hành tinh không che lấp Mặt Trời, đó chính là ban ngày. Ngược lại Mặt Trời khuất sau hành tinh, đó chính là ban đêm. Mỗi chu kỳ như vậy ở nơi này kéo dài tổng cộng chưa tới sáu tiếng đồng hồ.
Bọn nhóc ở đây phần lớn đều là lần đầu tiên thấy được hình dáng của vũ trụ, của Mặt Trời nên vô cùng phấn khích. Chúng bắt đầu tỉ mẩn ghi chép lại các số liệu. Thuốc Nổ cũng rút cái nhiệt kế mình đã cắm vào mặt đất lúc trước để đem ra so sánh. Cậu không khỏi chép miệng:
“Quả đúng như những gì mình dự đoán.”
Cậu có thể cảm nhận rõ ràng nhiệt độ của tiểu thiên thạch này được duy trì một cách ổn định ở khoảng 300 độ Kelvin nhờ một cơ chế điều hòa nào đó. Tuy nhiên, nhiệt độ ghi nhận ở trên nhiệt kế cũng không thay đổi một chút nào mặc dù đã được chiếu bởi ánh sáng hội tụ của Mặt Trời trong thời gian dài. Điều đó chỉ dẫn tới một kết luận duy nhất.
“Ánh sáng ở nơi này không mang theo năng lượng.”
“Xuất sắc, cậu Trần Ngọc, xuất sắc.”
Giáo sư Mari vỗ nhẹ hai tay, cố làm cho giọng nói của mình trở nên to hơn:
“Đó là lý do vì sao Namuh là một thế giới chết.”
Thuốc Nổ bây giờ đã giải thích được hoàn toàn sự điêu tàn của Hiến Quốc Namuh này. Không có năng lượng Mặt Trời tức là không có nhiệt độ, bề mặt hành tinh sẽ nhanh chóng đóng băng và hướng dần tới độ không tuyệt đối. Bầu khí quyển cũng biến mất. Nhân loại phải chui rúc tận cái xó xỉnh sâu trong lõi của hành tinh, níu kéo vào chút năng lượng từ các vận động địa nhiệt để sinh tồn.
Cây cối không thể quang hợp vì thiếu năng lượng cho phản ứng tổng hợp đường nên đều chết dần chết mòn cả. Con người phải tự tổng hợp Oxy và chất dinh dưỡng từ các nguồn khác.
Giáo sư Mari chỉ về hướng ngược lại trên bầu trời, lời vẫn không ngắt quãng:
“Đó cũng là lý do tồn tại của nó. Tưởng Giới là một cỗ máy năng lượng vĩnh cửu cung cấp toàn bộ nhiên liệu cho nền văn minh Namuh vận hành. Chẳng ai biết nó được tạo ra từ bao giờ, do ai làm ra, lịch sử chẳng hề ghi