Tuy mới vào khoảng đầu giờ Dậu, nhưng về tiết mùa đông, trời đã nhá nhem
tối Các nhà, các hàng xén ở phố Từ Sơn đều đóng cửa. Chỉ trừ một hàng cơm là
có ánh sáng. Và luôn luôn ở trong đưa ra tiếng cười nói ầm ỹ.
Một trang thiếu niên ky sĩ, từ phía Nam tới, kìm ghì cương ngựa trước cửa
hàng. Chàng y phục nai nịt gọn gàng, đầu đội nón lông đen, chân đi hia chẽn, cỗ
quấn một cái khăn lụa trắng thắt lỏng, mối bỏ rủ sau lưng. Con ngựa của chàng sắc
nâu xẫm, và tuy nhỏ thon, nhưng có dáng mạnh mẽ và khỏe dai. Trời lạnh buốt
căm căm mà mình nó ướt đẫm mồ hôi, xem đó đủ đoán biết chủ nó đi từ xa lại.
Thế mà mũi nó hục hặc thở ra hai luồng hơi khói, bốn gió nó cuốc xuống đất như
gõ nhịp, để tỏ ý muốn là còn thừa sức chạy một thôi dài nữa. Ky sĩ lấy tay vỗ khẽ
vào cổ ngựa nói:
- Hãy thong thả, tuấn mã, đi đâu mà vội thế? Thầy trò ta nghỉ chân ăn lót dạ
Chàng vừa toan xuống ngựa, thì mắt chàng ngẫu nhiên để tới một cái bảng gỗ
vuông quét vôi trắng, trên viết những chữ nôm thật to, to đến nỗi trời đã gần tối
hẳn mà chàng còn lỗ mỗ đọc được...
Nhưng giữa lúc đó, sau một tiếng hét của con ngựa thì tiếng ồn ào cười nói
trong hàng cơm im bặt. Rồi cánh cửa hé mở, một người thò đầu ra hỏi:
- Ai?
Không trả lời, thanh nhiên võ sĩ nhanh nhẹn nhảy ngoắt xuống đất, kéo và vuốt
áo cho hết nếp răn vì lúc ngồi trên yên, chàng đã giắt vạt cả vào trong chiếc giây
lưng điều. Đoạn, thong thả, dõng dạc, chàng bảo người vừa hỏi:
- Chú còn đợi đến bao giờ mới ra giắt ngựa của ta vào tàu?
ý chừng cho là lời nói đó hỗn xược, người kia mở mạnh cánh cửa bước ra
đường đứng phưỡn ngực chống tay vào sườn, gật gù hỏi lại:
- Anh có biết tôi là ai không mà dám nói xách mé như thế?
Người khách mới đến mỉm nụ cười khinh bỉ thản nhiên đáp:
- à, ra tôi lầm? ý chừng chú không phải là chủ quán hay người nhà hàng cơm.
Rồi, sau khi đã buộc giây cương vào đầu một cái kèo ở mái hiên, chàng đi
thẳng vào trong hàng, lớn tiếng gọi:
- Chủ quán?
Nghe tiếng chàng sang sảng, ngắm thân thể chàng cao lớn, mạnh mẽ, nhất lại
nghe lách cách cái vỏ kiếm chàng đeo bên sườn đập vào ngưỡng cửa, người chủ
hàng cơm hốt hoảng chạy ra khúm núm chào và lễ phép hỏi:
- B ẩm quan lớn truyền . . . ?
- Sắp rượn làm một con gà nhắm. Đoạn ra giắt ngựa vào tầu cho nó ăn thóc.
- Dạ.
Bốn người ngồi quây quần đánh tam cúc ở một cái phản bên dương mắt ngạc
nhiên, yên lặng nhìn. Người ở ngoài đường quay vào nói to bảo bọn họ, có lẽ cốt
để võ sĩ vừa tới nghe rõ :
- Lệnh trên ban xuống cho anh em mình canh phòng ở đây, các chú phải cẩn
mật, nếu vô ý để phạm nhân trốn thoát thì đầu anh em mình chẳng còn đâu!
Dứt lời, bác cai - vì bọn đó là một viên cai và bốn tên lính - trèo lên ngồi
chểm chệ trên một cái phản cao kê liền bên.
Người trẻ tuổi mới đến tò mò đưa mắt quanh phòng rồi mỉm cười hỏi bọn lính:
- Này các chú, có xảy ra việc gì mà việc canh phòng cẩn mật thế?
Một người lính trỏ lên cái bảng cũng giống cái bảng treo ở ngoài cửa mà nói
răng:
- Đọc đó sẽ hiểu.
Trong khi người khách lạ đứng lên cái ghế đẩu vuông để xem bảng, thì viên
cai và mấy chú lính nháy nhau thì thầm:
- Khả nghi?
- Đề phòng?
- Tôi hỏi tín bài hắn nhé?
- Hãy thong thả. Nhưng phải luôn luôn để ý đến hắn. Mà khí giới để đâu cả?
- Để cả dưới gầm phản.
- Đeo dao ngay vào thắt lưng. Còn mã tấu, đoản kích thì của người nào, người
ấy đặt ngay bên mìn để phòng biến. Mà se sẽ chứ chẳng hắn biết. Nghe chừng hắn
ta cũng không phải tay vừa đâu.
Người trẻ tuổi vẫn đứng trên ghế lẩm nhẩm đọc:
"Quan trấn thủ trấn Kinh Bắc Nguyễn Mỗ có lời yết thị như sau này:
"Từ khi đức Thái tổ Võ Hoàng đế đánh đuổi quân Tôn SĩNghị chạy như đàn
chuột về Tàu, và trừ tiệt giặc giã quấy nhiễu trong nước, thì trăm họ đều đươc an
cư lạc nghiệp. Nhưng gần đây một tên ngông cuồng dấy loạn để làm rối cuộc thái
bình, nhân dân đầu ghét, đều oán coi như kẻ thù chung. Tên ấy là Nguyễn Đoàn
người hạt Từ Sơn. Than ôi! Lưới trời tránh sao cho thoát, nhờ oai hoàng đế, bản
chức đã bắt sống đươc tên phản quốc và đã hành hình nó rồi. Song dư đảng bọn
giặc còn luẩn quẩn vùng này, mà trong bọn có một tên rất nguy hiể ưm ấy là tên
Phạm Thái tức Phạm Phụng con tên nghịch tặc Thạch Trung Hầu, quán thôn Yên
thi xã Yên Thượng, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn.
"Phạm Thái vào trạc hai mươi tuổi, người vừa tầm, nhưng rất khỏe, rất giỏi
võ Dưới đây có phác bức hình, hoạ theo những lời trình bày của các thám tử. . .
ai bắt sống đươc Phạm Thái sẽ thưởng tiền một nghìn quan. Ai giết chết hắn
sẽ thưởng tiền năm trăm quan.
"Nhận đươc giấy yết thị nầy, các viên phân tri phải dán ở các ngã ba cùng cá
tửu quán có đông người lai vãng. Lại cho lính ngày đêm canh phóng ở các nơi mà
quân gian có thể tụ họp đươc.
"Niên hiệu Cảnh Thịnh, Năm thứ năm, tháng chạp, . ngày mồng ba ".
ở một góc bảng, có vẽ rất sơ sài diện mạo một người đàn ông và chua mấy
hàng chữ sau này:
"Mặt trái soan, miệng rộng, mắt hơi xếch lông mi rậm, tai to, có một nốt ruồi
ở sau tai bên phải "
Chàng trẻ tuổi bỗng nhiên cất tiếng cười vang. Bọn lính cơ ngạc nhiên nhìn
nhau, rồi một người mạnh bạo hỏi:
- Cớ sao đọc tờ yết thị của quan trấn thủ, nhà ngươi lại dám chế nhạo?
Chàng kia quay lại đáp:
- Không, ta có chế nhạo ai đâu? Ta chỉ tức cười chết đi vì câu: "Có một nốt
ruồi sau tai phải". Thiết tưởng nếu tráng sĩ Phạm Thái là người rất khoẻ, rất giỏi
võ như tờ yết thị đã nói, thì còn ai dám đến gần vạch tai hắn ra mà xem nốt ruồi?
Thành thử câu chỉ thị đó thực là thừa.
Dứt lời, chàng lại cười, lấy làm thích chí lắm:
- Trời ơi? Sao không chua: Phạm Thái có cái mũi ở giữa mặt, có cái cằm ở
dưới mũi, có phải dễ nhận hơn không?
Viên cai đứng dậy quát:
- Anh không được hỗn xược với quan trấn thủ?
Chàng trẻ tuổi vờ nhún nhường đấu dịu:
- Sao chú vội giận thế? Nào tôi có hỗn xược gì đâu? chẳng qua bàn một câu
cho vui đấy thôi chứ.
Vừa nói chàng vừa bước xuống đất, rồi như quên hẳn câu chuyện vừa xảy ra,
chàng gọi:
- Chủ quán?
- Dạ.
Một người to béo mặc áo cánh bông, đầu chít chéo vuông khăn nhuộm nâu,
nặng nề đi lại gần, chắp tay chờ lệnh.
- Chủ mi đâu?
- Bẩm quan lớn? Chủ con đương làm nhắm hầu quan lớn.
- Sao rượn ta gọi từ nãy vẫn chưa đem ra?
- Bẩm, con, tưởng còn chờ nhắm.
- Cứ đem rượn ra trước đã.
- Bẩm có hâm nóng không?
- Không cần. Mau lên?
- Dạ? Nhưng ngài sơi rượn gì?
- Rượn Cúc? Mau?
- Dạ?
Tức thì tên hầu rượn vào buồng lấy ra đặt lên bàn một cái nậm và một cái chén
vại mà hỏi :
- Bẩm công tử ngổi giường hay ngồi bàn?
- Ngồi bàn được rồi. Mà sao đèn lù mù thế nầy. Chặp ba sợi bấc vào, rồi đi lấy
thêm dầu rót cho đầy bát.
- Dạ.
Chàng trẻ tuổi uống luôn ba chén rượn đầy, chép miệng liếm môi chau mày
nói lớn:
- Hừ? Rượn thằng cha pha nước lã nhiều quá, uống chẳng mùi mằn gì? .. Quán?
- Dạ.
Tên hầu sợ hãi bước tới, vì hắn đã nghe rõ lời chê bai của ông khách. Nhưng
ông khách ôn tồn hỏi:
- Có mực không?
Tên kia vui mừng đáp:
- Bẩm công tử, có mực Bắc Hải ngon lắm.
- Vậy đi sắp cho ta cái hỏa lò than hồng với lại đem lên đây mươi con mực.
Một lát sau, mùi mực nướng thơm phức bay khắp gian phòng. Và ông khách
đã dùng đến nậm rượn thứ ba.
Viên cai bắm bọn lính ra hiệu thì thầm:
- Thằng nầy tôi xem chừng có lẽ là Phạm Thái. Mặt trái soan thì đích rồi. Lông
mày tuy không rậm nhưng không thưa. Còn miệng hắn như thế cũng có thể cho là
rộng được.
- Vâng, có lẽ đích rồi.
- Giá bây giờ ai lén đến sau lưng lật trái tai hắn ta lên xem có nốt ruồi không,
thì mới biết chắc chắn được.
Mọi người im lặng nhìn nhau, có ý lo sợ. Viên cai ngẫm nghĩ rồi lại nói:
- Các chú ạ, ta nói phải dùng mưu... Thế này này: Bây giờ ta nói phỉnh cho nó
uống thật nhiều rượn. Khi nào nó say mềm, ta chỉ việc trói gô lại là xong.
- Nhỡ nó không phải Phạm Thái.
- Thì thả nói ra.
- Vậy được rồi
Người trẻ tuổi thấy bọn kia ở ngoài đi vào, nét mặt ai nấy có vẽ bí mật, thì vui
cười hỏi:
- Các chú đi tìm Phạm Thái về đấy à?
Viên cai cơ đáp:
- Phạm Thái hắn ẩn