Trên con đường từ thành Kinh Bắc đến huyện Đa Phúc, buổi sáng hôm ấy.
Những người lái buôn nói với nhau câu chuyện sởn gáy, rùng mình.
Trong bọn có bác gánh một gánh nồi đồng nặng là nhát gan hơn cả. Mới tới
cầu Dọi, bác đã hoãng hốt hết vía vì một câu chuyện vừa được nghe và nhất định
đòi trở lại trấn lỵ, không đi nữa. Một cô hàng nồi đất, người bé nhỏ xinh xắn đưa
con mắt sắc sảo liếc chàng và mỉm cười nói:
- Ví bằng bác chẳng chịu hộ vệ chúng em qua khỏi bến đò Lo thì cũng xin bác
đưa chúng em đến chợ Chờ để chúng em bán mấy gánh nồi đất này chứ.
Một cô khác cũng chêm một câu:
- Đàn ông các ông mà sợ hãi thế, thì bọn đàn bà con gái chúng em còn đi buôn
bán làm sao?
Một anh chàng trẻ tuổi làm nghề hoạn lợn, tay vác cái cần dài đầu có thòng
lọng, nghe chừng cảm động và mạnh bạo vì những đôi mắt đưa tình, những cặp
môi tươi thắm. Chàng bàn:
- Thì ta hãy vào trong cầu ngồi nghỉ mệt đã nào.
- Phải đấy, trời mưa bay cũng có vẻ đẹp, nhưng chúng ta chẳng khỏi rét buốt
đến xương. Vậy còn gì hơn là vào ẩn dưới mái cầu, trú mưa một lát.
Giọng bình tĩnh của cô hàng nồi đất trẻ tuổi khiến mọi người phải kính phục
và lấy làm thẹn cho cái tính nhút nhát của mình. Vì thế, ai nấy vui vẻ cười nói đi
vào trong cầu, đặt gánh hai bên lan can, kẻ ngồi người đứng, góp câu chuyện gẫu.
Anh chàng hoạn lợn đứng phải chỗ mái cầu giột liền nói đùa:
- Rõ may? Đương khát lại với được chỗ có nước.
Rồi anh ta thọc tay vào gánh hàng của cô xinh xắn kia lấy ra một cái niêu nhỏ
hứng nước mưa. CÔ hàng cũng chẳng phải tay vừa:
- Se sẽ chứ không vỡ cả của em đấy.
Mọi người cất tiếng cười vang. CÔ hàng lại tiếp luôn:
- Cười vừa chứ, chẳng lỡ sụt mái cầu thì chết cả lũ bây giờ.
Lúc bấy giờ nàng mới kịp lưu ý đến một người đàn ông vào trạc ba mươi ngồi
bên hai cái tay nải nây to kếch, vẻ mặt lo lắng, sợ hãi. Nàng liền quay lại hỏi:
- Bác gánh vải sợi đi đâu đấy?
Người kia se sẽ đáp:
-Không, cô ạ, tôi gánh tơ sang bán bên chợ Phù Lỗ.
- o thế thì hay quá nhỉ, em củng đi chợ Phù Lỗ. Vậy ta phải lên đường thôi,
chẳng trễ quá thì bán cho ai.
- Tôi đợi trời sáng hẳn mới dám đi. Nghe nói vùng này loạn lạc ghê gớm lắm.
CÔ kia cười:
- Bác cả lo quá, từ khi nhà Nguyễn ta nối nghiệp nhà Lê thì giặc giã còn đâu
cơ chứ.
Anh hoạn lợn gia sản mang theo có mỗi một cái thòng lọng. Vì thế, anh ta
chẳng lo ngại gì cho tính mệnh anh ta, dù có giữa đường gặp cướp đi nữa. Nhưng
anh ta càng bình tĩnh bao nhiêu, anh ta lại muốn mọi người lo sợ bấy nhiêu, nên
gặp bác hàng tơ và vài người hàng vải, hàng xén đứng trong cầu, anh ta rắp kể cho
nghe câu chuyện mà anh ta đã thuật với mọi người trên quãng đường từ trấn lỵ tới
đó Anh ta liền vờ lên giọng đạo dức bảo cô hàng nồi đất:
- CÔ ác lắm. Nói thế nhỡ bác ta tưởng thực thì sao? Không đâu, bác ạ, vùng ta
nhộn lắm kia đấy.
Bác hàng tơ run lập cập:
- Vâng, tôi cũng nghe thấy người ta đồn thế. Hình như tối hôm qua, quân của
Nguyễn Đoàn hạ... mất Phủ Từ Sơn rồi thì phải.
CÔ hàng nồi đất cười ròn:
- Nguyễn Đoàn bị xử tử rồi còn đâu.
Anh hoạn lợn bĩu môi:
- Xử tử hắn, nhưng dư đảng của hắn liệu có xử tử hết được không? Phạm Thái
còn đáng ghê sợ gấp mấy Nguyễn Đoàn.
CÔ hàng, giọng khinh bỉ:
- Nhưng đảng họ chống cự với vua Tây Sơn, chứ có phải bọn giặc cướp tầm
thường đâu mà đi bóc lột bọn con buôn như chúng mình.
- Không? Cứ một việc xảy ra ở một tửu quán phố Từ Sơn tồi hôm qua cũng đủ
hiểu bọn họ chỉ là một bọn giết người lấy của.
Người hàng tơ nhớn nhác hỏi:
- Vậy à? Câu chuyện thế nào, bác cho chúng tôi nghe với.
Anh hoạn lợn ra bộ ta đây thành thạo việc đời, hắn giặng hai, ba tiếng lấy
giọng rồi kể:
- Nguyên tôi có người anh con nhà bác đóng đội cơ tại dinh quan Hiệp trấn
Kinh Bắc. Tối hôm qua, tôi ở chơi đằng nhà bác đội. Cơm nước xong đi ngủ như
thường...
CÔ hàng nồi đất cười và ngắt lời:
- Bác nên kể tóm tắt thì hơn. Chúng ta còn phải lên đường chớ. Kìa bác coi, đã
sáng rõ rồi, phương đông đã đỏ ửng ánh sáng mặt trời. Mưa thì cũng đã tạnh.
Anh chàng kể chuyện liếc cô một cái rất tình:
- Sao mà cô táo cấp thế? Vâng thì kể tóm tắt. Chúng tôi đi ngủ... Vào khoảng
cuối giờ Sửu sang đầu giờ Dần, có tin cầp báo ở Từ Sơn đưa lên. Một người lính
cưỡi ngựa truy phong phi thẳng vào dinh quan Hiệp trấn báo có giặc ở Từ Sơn.
Tên giặc ấy chẳng phải ai xa lạ, chính là Phạm Thái tức Phạm Phụng mà quan
quân vẫn tróc nã bấy lâu nay. Đầu đuôi việc ấy như thế này: Chập tối, một nhà sư
vào một hàng cơm ở phố Từ Sơn ngủ trọ để sáng hôm sau lên chùa Phật tích sớm.
Nhà sư đem theo nhiều đồ thờ quý giá lắm, ấy là không kể tiền bạc gói chặt trong
một chiếc mền nâu. Tức thì Phạm Thái đã nấp sẵn đâu đó tiến theo vào liền sau.
Hắn ăn vận chững chạc, nai nịt gọn gàng; khi lính canh trong tửu quán hỏi tín bài
thì hắn giơ ra một cái tín bài giả cũng có khắc bốn chữ "thiên hạ đại tín" y như
trong những tín bài của triều đình. Nhưng tên tuổi quê quán thì hắn chu man là Lê
Báo, người trấn Sơn Nam. Tuy thế lính vẫn chú ý đề phòng vì thấy hắn ta có dáng
khả nghi lắm. Quả không sai. Vào khoảng gần nửa đêm, tên Lê Báo giả tứ Phạm
Thái, chém giết hết bọn lính đông đến ngót ba chục, rồi cướp nhà sư với các bảo
vật kim ngân nhảy phắt lên ngựa trốn mất. Bây giờ nghe đâu hắn ta vẫn còn lẩn
quất ở vùng ta thì phải.
Bác bán tơ run như cầy sấy, hỏi lại:
- Hắn ta còn lẩn quất ở vùng nầy?
CÔ hàng nồi đất cất tiếng cười khanh khách nói bông:
- Bác hoạn lợn kể chuyện hay nhỉ, nghe như truyện Tam Quốc vậy. Nhưng anh
em chị em đừng tin bác ta, cứ mạnh bạo lên đường là hơn hết.
Dút lời, nàng nhanh nhẹn quẩy gánh và giục mọi người ra đi. Muốn ai nấy
quên câu truyện ghê gớm nàng cất tiếng hát một bài quan họ có ý tứ bỡn cợt, trêu
ghẹo, lẳng lơ:
"Đêm qua em mơ gặp chàng,
Đôi ta tạc nghĩa đá vàng cùng nhau.
Uớc gì anh trước em sau,
Đi chợ Phú Lỗ trao cầu kết duyên ".
Hát xong, nàng lại cười ròn như nắc nẻ, anh hoạn lợn nghe nàng nói đùa bác
bán tơ thì tỏ ra vẻ tức tối, hậm hực. ý chừng nàng cũng biết vậy, nên lại hát luôn
câu nữa để lấy lòng anh ta.
Anh thợ hoạn ơi,
Anh về gánh đất nặn nồi,
Để em đem bón cho người nấi cơm ".
Những người đàn ông ôm bụng cười ngất. Mấy cô bán hàng nồi đất xấu hổ đỏ
mặt. Nhưng ai nấy hầu như đã quên bẵng câu chuyện cướp bóc và đề cất gánh
lững thững đi theo cô hàng láu lỉnh.
Lúc bấy giờ, mưa bay đã tạnh hẳn và mặt trời đã ló trên phía thành quách,
chiếu xuống một làn ánh sáng dịu dàng.
Bọn lái buôn vừa trai vừa gái, vừa nhà quê vừa thành thị độ hơn mười người,
gồng nánh, đội vác đi trên bờ đê nhỏ hẹp, bên con sông Dọi, nước về mùa đông,
hầu cạn hẳn. Họ xúm xít đi sát vào nhau, hình