Hoàng phi, Phạm Thái và Nhị Nương Ở lại nhà Đào Phùng hai hôm. Trong hai
hôm ấy, mấy người luôn luôn nói chuyện với nhau về binh thư và chiến lược. CÓ
khi lại rủ nhau lại ngọn núi Yên Xá để đấu võ. Đào Phùng lấy làm phục võ nghệ
của Phạm Thái và Nhị Nương lắm.
Hôm thứ ba, bốn người từ biệt lên đường. Đào Phùng nói nên đi tắt đến Hoàng
Mai, rồi từ Hoàng Mai đi tắt lên Lạng Thượng. Nhưng bốn con ngựa lại đã để chờ
sẵn Ở Đạo Ngạn. Đào Phùng liền cùng Phạm Thái và chú tiểu chở thuyền ngược
lên đó, để đem ngựa về, một mình Nhị Nương Ở nhà hộ vệ hoàng phi.
Vào buổi trưa ba người trở về, mỗi người cười một con ngựa, Phạm Thái kèm
thêm một con.
Nhưng khi đi đến sân, thì một cảnh tưởng ghê gớm bày ra trước mắt: bốn cái
thây lực lưỡng nằm sóng sượt Ở bên mấy gốc thông. Phạm Thái hốt hoãng:
- Hoàng phi đâu? Thôi chết rồi?
- Hoàng phi Ở đây?
Nghe tiếng Nhị Nương đáp lại Phạm Thái mới hết lo, chạy vội vào trong nhà,
nói với hoàng phi:
- Để lệnh bà khiếp sợ, thực tội hạ thần to lắm.
Hoàng phi cau mày:
- Chỉ vì các em không nghe lời chị, cứ luôn miệng lệnh bà, với tâu, với hạ thần
nên mới xảy ra cái hoạ tày trời này. May mà có Nhị Nương dấy, chứ không thì
cũng chưa biết chừng chị còn sống mà ngồi đây. Chỉ thương Đào quân có bốn tên
người nhà bị Nhị Nương giết mất cả... RÕ thật Đào quân làm ơn nên oán...
Đào Phùng lại phục xuống đất khóc xin chịu tội. Xong chàng quay ra hỏi Nhị
Nương :
- Đầu đuôi câu chuyện ra sao, thưa quý nương?
Nhị Nương liền thuật lại cho hai người nghe:
- Mấy tên kia biết rằng trong bọn khách của chủ chúng nó có bà hoàng phi.
Nhân thấy Đào Phùng, Phạm Thái ra đi, Ở nhà chỉ còn hoàng phi với một chàng
công tử nhỏ, xinh xắn như con gái, chúng liền bàn cùng nhau ra tay bắt nộp quan
lĩnh thưởng. Chẳng ngờ chàng công tử bé nhỏ lại có võ nghệ cao cường, chỉ đưa
bốn mũi kiếm là bốn đứa hoá bốn cái thây ma.
Đào Phùng cười ha hả, nhưng tiếng cười có giấu nỗi buồn vô hạn:
- Thực đáng kiếp cho bốn thằng phản chủ? Chúng là bốn tên thuyền chài, ngu
đệ tuy dùng, nhưng mà cũng nơm nớp lo sợ, vì thế trong câu truyện, khi có chúng
đứng hầu, ngu đệ vẫn phải giữ gìn. Nhưng không biết sao chúng nó lại hay rằng
Phổ Bác thiền sư là hoàng phi?
Đào Phùng ngẫm nghĩ một lát, rồi như chợt hiểu, chạy lại soát quần áo bốn
đứa vừa bị giết thì trong hầu bao một thằng có một tờ giấy chữ đầy những dấu son
đỏ chói. Đào Phùng kêu:
- Đã biết ngay mà? Một tên thám tử.
Vừa nói, chàng vừa đạp mạnh vào cái xác, rồi gập tờ giấy bỏ vào bọc.
Cả năm người cùng có vẻ lo lắng, suy nghĩ Hoàng phi nhìn xuống chân đồi:
Con sông cầu lượn khác chảy về phía đông, giòng nườc lấp lánh dưới ánh trời
trưa. Bổng bà buông một tiếng thở dài, chán ngán.
Đào Phùng cúi đầu tạ tội:
- Để lệnh bà sợ hãi, kẻ hạ thần thực đáng chết.
Hoàng phi như không nghe thấy gì hết, cặp mắt tuôn hai giòng lệ. Rồi bà thổn
thức bảo Nhị Nương và Phạm Thái:
- Hay tôi, ta đừng đi Lạng Sơn nữa hai em ạ.
Nhị Nương an ủi:
- Tâu lệnh bà, không bao giờ ta nên nản lòng. Ta phải...
Không để cho Nhị Nương dút câu, hoàng phi tiếp luôn:
- Vì, các em ạ, chị còn sống đến ngày nay là chị mong ước mai sau được gặp
hoàng đế... Nhưng hoàng đế thăng hà rồi các em ơi, thì chị còn sống làm gì nữa,
thà chị thác đi để dưới suối vàng được cùng hoàng đế tương kiến...
Bà bưng mặt nức nở khóc. Phạm Thái nói:
- Nhưng hoàng đế hiện còn sống, sao lệnh bà lại nói gở thế?
- Không, đích thực hoàng đế thăng hà rồi. Đêm hôm qua chị nằm mộng thấy
hoàng đế khóc mà bải chị rằng "ái khanh ơi, đôi ta ngày nay đã âm dương cách
biệt. Ta không hề oán giận điều gì, ví dù có Ở dương thế ta cũng chẳng hy vọng
được cùng ái không hội ngộ." Rồi hoàng đế tả những cảnh khổ sở, những nỗi gian
nan, các em để chị chết cho được gặp mặt hoàng đế Ở dưới cửu tuyền, chứ chị
sống thêm một ngày là thêm một ngày đầy đoạ Ở dương gian...
Đào Phùng, Phạm Thái và Nhị Nương xúm lại khuyên giải, lâu dần hoàng phi
cũng ngôi nguôi.
Nhị Nương nói:
- Vì lệnh bà tưởng nhớ hoàng thượng quá nên hoá mộng đó thôi. chứ vừa có
người Ở bên Trung quốc về nước nói hoàng thượng hiện đóng Ở Tràng An chờ
binh cứu viện của nhà Thanh.
Nhị Nương bịa đặt ra tin ấy, để yên lòng hoàng phi mà thôi. Kỳ thực, các yếu
nhân trong đảng Tiêu Sơn thừa biết rằng vua Chiêu Thống không chịu nỗi những
sự nhục nhã, những sự khinh mạnh của người Tàu đã chết rồi, chết theo hoàng tử
đã ba năm trước. Nếu trong các tờ hịch, các mật thư gửi cho nhau họ vẫn còn dùng
niên hiệu Chiêu Thống là chỉ cốt để khỏi náo động lòng các đảng viên và nhân dân
các nước đang mến tiếc nhà Lê. Vả họ cho rằng nước không thể một ngày không
vua được, mà vua Quang Toản nhà Tây Sơn thì họ nhất định không công nhận là
ông vua chính thức của nước Việt Nam. Vì vậy trong khi chưa tìm được một
người trong hoàng tộc để tôn lên ngôi hoàng đế, đảng Tiêu Sơn tạm phải coi như
vua Chiêu Thống hãy còn sống, để làm trụ thạch cho công cuộc khởi nghĩa của
đảng
Phạm Thái bỗng dục:
- Tâu lệnh bà, bây giờ sang giờ Mùi rồi, ta phải đi kíp, thì tối nay mới có thể
tới Lạng Giang được.
Đào Phùng bàn:
- Lệnh bà nên nghỉ lại Hoàng Mai, sớm mai hãy lên Lạng Giang thì hơn. Như
thế lệnh bà đỡ nhọc mệt mà ngựa lại được nghỉ ngơi dưỡng sức.
Ai nấy còn đương suy nghĩ thì Đào Phùng lại nói luôn:
- Tôi xin có thư giới thiệu của Phạm hiền hữu, một nhà ẩn sĩ Ở Hoàng Mai tên
là Phạm Quảng Văn. Người ấy đậu tiến sĩ về cuối đời Cảnh Hưng, văn chương lỗi
lạc, chỉ vì tính cương trực nên không được chúa Sâm trọng dụng. Vả ông ta cũng
không thích ra làm quan, bỏ về làng dạy học, lấy sự chơi núi cao, sông rộng, uống
rượn, ngâm thơ làm thú. Ngày bà hoàng phi họ Đặng mưu việc phế lập muốn tìm
vậy cánh cho Trịnh cán để chống nhau với Trịnh Khải, cũng đã nghĩ đến ông Nghè
trẻ tuổi ấy, mà đòi ông ta về triều, vì có ông Ngô thì Nhậm đậu cùng khoa với ông
ta tiến cử. Nhưng ông ta không ưa những sự âm mưu ám muội, nên cáo ốm Ở lỳ
nhà Hiền hữu nên đến chơi ông ta, vì ông ta không những có văn tài, mà về binh
lược, ông ta cũng khá lắm. Khi xưa quận Nhưỡng đóng binh Ở Hải Dương cũng có
mời ông ta đến tham nghị. ông ta tấy Nhưỡng có tính phản trắc, biết không làm
nổi việc lớn nên vừa đến ông ta đã về ngay. Từ đó tới nay, ông