Sáng sớm hôm sau, bốn người lên đường, Phạm Thái nhường hoàng phi cưỡi
con ngựa trắng giống ngựa thổ Bắc Kạn, thân nhỏ thấp và bốn chân tuy hơi thô,
nhưng rất thẳng và vững. Còn ba con kia sắc tía, bờm dài, đuôi dài, trong khi chạy,
cổ cất thẳng và những lúc người cưỡi kìm cương đứng lại, thì bốn vó nhỏ thon của
nó luôn luôn cuốc xuống đất và mũi nó hục hặc thở phì hơi. ĐÓ là hạng chiến mã,
giống Lạng Sơn ky sĩ phải có vẽ tốt, cương cứng mới trị nổi, tay non sẽ bị vật ngã
liền.
Song song đi hàng đôi và buớc một trên con đường đất đầy cỏ xanh ướt, bốn
con ngựa thỉnh thoảng gặp vũng nước động ngầm dưới cỏ sau trận mưa tối hôm
trước, làm cho nước vọt tung toé lên. Mưa bay đã tạnh hẳn. Nhưng tiết trời mỗi
lúc một thêm giá, nhất là gió bấc thổi lại càng mạnh khiến ai nấy chân tay lạnh
buốt. Nhị Nương bèn dừng lại Ở một cái quán bên đường để uống bát nước chè
tươi nóng và mở khăn gói lấy chiếc áo cà sa nâu dầy đưa hoàng phi mặc trùm ra
ngoài cho đỡ rét.
- Nam mô a di đà Phật? Hẳn nhà chùa đi đường xa.
- Sao cô hàng biết?
- Vì thấy nhà chùa cưỡi ngựa. Ở vùng này ít khi có các sư ông cưỡi ngựa đi
qua.
Hoàng phi lo lắng nhìn Nhị Nương. Phạm Thái thản nhiên đáp lại cô hàng:
- Phải, bần tăng nay đi ngựa cũng là một sự bất thường. Nguyên Phổ bác thiền
sư - vừa nói vừa trỏ hoàng phi - khi tới Kinh Bắc thì mỏi mệt quá, không đi được
nữa, may gặp công tử đây - chỉ Nhị Nương - là chỗ bạn tâm giao, công tử liền bỏ
tiền ra mua mấy con ngựa để cùng đi cho vui.
- Nam mô a di đà phật? Thật công tử có lòng quý hóa? Nhưng chư tăng đi tận
đâu?
Nghe cô hàng hỏi tỉ mỉ, Phạm Thái đưa mắt liếc Nhị Nương có ý bảo thầm
phải coi chừng, vì biết đâu cô hàng ta không là một tay thám tử. Chàng cho rằng
nếu đảng Tiêu Sơn biết dùng những hàng cơm, hàng nước làm nơi dọ thám, thì
triều đình cũng chẳng dại gì mà không biết dùng. Chàng tin sự phỏng đoán của
chàng là đúng, khi thoáng nghe có tiếng bẻ nứa Ở trong buồng bên đưa ra. Chàng
nghĩ thầm: "Thế nào cũng có thằng ghé mắt nhìn qua bức phên liếp kia?"
Tức thì chàng đứng dậy giục giã mọi người lên ngựa, và bảo ai nấy cùng ra roi
phóng nước đại, phi về phía Lạng Giang. Mãi khi vượt qua làng Bái một quãng xa
và sợ hoàng phi mệt nhọc, chàng mới kìm cương ngựa lại. Nhị Nương hỏi:
- CỚ sao hiền đệ vội vàng như thế?
Phạm Thái vẫn còn ngó lại phía sau:
- Hiền tỉ không ngờ vực điều gì?
- Ngờ vực thì có ngờ vực, nhưng cần gì phải quá hấp tấp đến thế?
Câu nói bình tĩnh của một người thiếu phụ khiến Phạm Thái lấy làm tự hổ thẹn
về cử chỉ của mình. Chàng nói chữa:
- Nhưng mà tế ngựa một lúc trong người cũng thêm ấm được một chút, có phải
thế không, tâu lệnh bà?
Hoàng phi mỉm cười an ủi:
- Phải đấy. Nhưng chị đã dặn các em chỉ nên gọi theo đạo hiệu của chị mà
thôi Các em nên biết tai vách, mạch rừng, ta phải phòng bị luôn mới được. Vậy từ
giờ trở đi bất cứ chỗ đông người, hay Ở chỗ vắng, chị là Phổ Bác thiền sư còn công
tử thưa công tử tên họ gì tôi quên bẵng mất rồi.
Nhị Nương cười lớn, cố làm bộ dạng đàn ông thò tay vào bọc lấy tín bài mà
nó i răng :
- Bạch thiền sư tôi cũng quên bẵng mất, để còn phải tra cứu lại mới được.
Rồi nàng cầm tín bài đọc:
- Nguyễn Đức Minh, hăm nhăm tuổi, người làng Đông Phú, huyện Đông
Ngàn... CÓ thế mà mãi không thuộc.
Mọi người cười rộ.
CÓ tiếng đâu đó cười theo. Ai nấy kinh ngạc nhìn nhau. Một người tuy đầu râu
đã bạc, nhưng còn vẽ tráng kiện, da dẻ hồng hào, cười lừa từ bên sườn đồi đi
xuống, gọi:
- CÓ phải Chiêu đấy không?
Phạm Thái nhìn Nhị Nương, mà trong lòng lo sợ, bất giác thò tay vào bọc rút
dao. Người kia nói tiếp luôn?
- CÓ phải Chiêu Trung... Con quan Bạch Hạc Hầu... đó không?
Phạm Thái nghe giọng lè nhè thì đoán biết rằng ông già say rượn và lầm Nhị
Nương với ông Chiêu nào đó... Tức khắc chàng tra kiếm vào vỏ, vui mừng đáp lại:
- Dám xin lão trượng cho biết quý tính đại danh để lũ bần tăng được hầu
chuyện.
ông lão như không nghe rõ lời Phạm Thái, cho lừa bước lại gần bên Nhị
Nương mà nói rằng:
- Công tử đi chơi đâu với chư tăng thế?... lại rủ nhau lên Lạng giăng nhắm
rượn với thịt cầy chứ gì ? Cho lão phu đánh chén với nhé?
- A di đà phật?
Câu niệm phật của hoàng phi khiến ông già quay lại ngắm nghía, rồi nói:
- Chẳng hạn như sư ông đây vừa trẻ tuổi vừa đẹp trai... đẹp hơn con gái đấy,
mà bảo giới được tửu, giới được sắc thì lão phu... xin cam đoan chừa rượn... chừa
làm thơ... chừa tuốt... Chư tăng cùng công tử chắc cho lão già lắm rồi... Kỳ thực
lão mới năm mươi nhăm tuổi... Đầu lão bạc, râu lão bạc... là vì lão lo buồn nhiều
quá lo buồn về việc... việc nước...
Hoàng phi mỉm cười đáp:
- Lão trượng lo buồn việc nước mà rượn cứ chén tì tì được?
- ấy uống để quên. Nhưng về nhà lão chơi đã. Lão ra đón công tử từ sáng, vì
chắc thế nào công tử cũng qua đây.
Nhị Nương lễ phép xuống ngựa đáp:
- Thưa lão trượng, lão trượng nhầm rồi. Tôi có là ông chiêu ông ấm nào đâu.
Tôi là... là Nguyễn Đức Minh người huyện Đông Ngàn đây mà?
- Thế à? Thế ra công tử không phải ông Chiêu Trung, con quan Bạch Hạc Hầu
là bạn đồng khoa với lão phu. Nhưng không sao cứ về chơi đánh chén đã? Lâu nay
lão phu không có tri kỷ... uống rượn một mình buồn lắm?
Phạm Thái có vẻ ngẫm nghĩ Bỗng chàng hỏi ông lão:
- Dám hỏi tôn ông, tôn ông có phải là Phạm tiên sinh đâu tiến sĩ về đời Cảnh
Hưng không?
ông lão dương mắt đăm đăm nhìn Phạm Thái:
- Không, tôi họ Trần, chứ không phải họ Phạm, tuy tôi có đậu tiến sĩ, nhưng
thưa chư tăng cùng công tử, cái tiến sĩ ngày nay không quý bằng một bình rượn
ngon, hay một cái đùi chó thui vừa chín tới.
Dút lời, ông lão cất tiếng cười oang oang tỏ cho mọi người biết rằng mình còn
khỏe mạnh chẳng kém gì trai trẻ. Rồi ông ta nói tiếp:
- Ý chừng các ngài muốn hỏi thăm ông thầy số tướng thiên văn, địa lý Phạm
Quảng Văn người làng Hoàng Mai?
- Vâng.
- Còn tôi đây chỉ là Trần Lý người trấn Sơn Nam.
ông ta giơ tay trỏ lên một trái đồi:
- Nhưng không sao, xin mời chư tăng cùng công tử cứ đến chơi, nhà lão phu
kia rồi.
- Vậy xin vâng.
Năm người cho ngựa và lừa đi buớc một leo lên đồi. Bỗng một đứa trẻ nằm
ngửa phơi nắng trên lưng trâu vỗ bụng mà hát rằng:
Mặt trời sắp lặn sau đèo
Hỡi người hếlm củi hãy theo vào rừng.
Đem dao, cùng búa, cùng thừng.
Chặt cây cao nhỏ, xin đừng cây to.
Nhị Nương hỏi Trần Lý:
- Thế nghĩa là gì, dám thưa lão tiên sinh?
Phạm Thái nói:
- Trẻ chăn trâu nó hát nghêu ngao còn tìm hiểu nghĩa làm gì cho mệt trí.
Trần Lý suy nghĩ đọc nhẩm lại bốn câu ca vừa lắng tai nghe được:
Mặt trời sắp lặn sau đèo
Hỡi người hếlm củi hãy theo vào rừng.
Đem dao, cùng búa, cùng thừng.
Chặt cây cao nhỏ, xin đừng cây to.
Bỗng ông ta cười phá lên, bảo mọi người:
- Sấm rồi? câu sấm rồi? Thôi lại anh nào trong đám trung thần nhà Lê đặt ra đó
thôi Mà biết đâu lại không chính anh Phạm Quảng Văn là tác giả câu hát ấy.
Bấy giờ bốn con ngựa và lừa của chủ nhân đã leo đến một nếp nhà tranh làm Ở
một nơi đất bằng, rộng độ hai sào, chung quanh trông thông cùng dương liễu, Trần
Lý xuống lừa mời:
- Rước chư tăng với công tử vào chơi...
Rồi quay sang tiểu đồng:
- Chú Thiện? pha nước uống nhé?
Một câu bé đầu đội trái đào,