Vừa ngồi yên chỗ, Phạm Thái hỏi Quang Ngọc:
- Có việc gì quan trọng thế? Hiền huynh?
- Việc nào đi việc ấy. Bây giờ hãy chén đã.
Lê Báo cười hỏi rỡn Phạm Thái:
- Sư ông giới tửu chứ?
Phạm Thái làm thinh, miệng lâm râm cầu nguyện, khiến Quang Ngọc cáu kỉnh
gắt:
- Thôi, xin thầy tu hãy tạm cất cái lòng mộ đạo của thầy đi cho chúng tôi nhờ.
Phạm Thái ung dung đáp:
- Ngu đệ đọc bài kinh sám hối để cầu nguyện Phật tổ xá cho anh em mình cái
tội sắp ăn thịt lợn.
Lê Báo cười:
- Chúng mình có sát sinh đâu mà sợ, còn như ăn thì ai không ăn. Không ăn,
sống sao được ?
Quang Ngọc khen:
- Chú ba nói phải lắm. Vả Phật tổ khi xưa cũng ăn thịt kia mà. Trong thánh
kinh có chép rằng vì ăn thịt lợn rừng của một chú tiều phu kính dâng mà Phật tổ
hoá ở giữa đường.
Lê Báo reo mừng:
- ồ ? Thế thì hay lắm nhỉ ? Hôm nay không có thịt lợn rừng, anh em chúng ta ăn
thịt lợn nhà vậy Cũng là một cách kỷ niệm ngày Phật tổ hoá chứ sao.
Quang Ngọc cất tiếng cười vang. Còn Phạm Thái thì chàng có vẻ mặt buồn
rầu, nghĩ ngợi, tâm trí như để cả đâu đâu. Song tuy chàng làm ra không tưởng tới
ăn uống, mà chàng ăn rất khoẻ, uống rất nhiều có phần gấp rười hai người kia.
Khi ai nấy rượn ngà ngà say. Lê Báo thấy chàng vẫn ngồi ngây như người mất linh
hồn liền bảo Quang Ngọc:
- Phạm hiền huynh sao hôm nay nhạt nhẽo thế? Hay vì có em đây, nên không
được vui?
Quang Ngọc đáp:
- Phạm hiền đệ vẫn thế đấy, càng say càng lỳ. Chẳng thế đã không nổi danh là
Chiêu Lỳ ?
Lê Báo cười hỏi:
- Chiêu là Phổ chiêu hay là cậu chiêu đấy?
Phạm Thái gật gù đáp:
- Cả hai.
- Cả hai.
Rồi chàng khoan thai ứng khẩu đọc:
Có ai muốn biết tuổi tên gì?
Vừa chẵn hai mươi, gọi chú Lỳ
Năm, bẩy bài thơ ngâm lếu láo,
Một vài câu kệ tụng a ê.
Tranh vờn sơn thủy màu nhem nhuốc.
bầu giốc hền khôn giọng bét be.
Miễn đươc ngày nào ngang dọc đã.
Sống thì nuôi lấy chết chôn đi.
Lê Báo khen lấy khen để. Quang Ngọc thì chau mày tỏ vẻ không bằng lòng mà
cự răng:
- Hay thì có hay, nhưng ý chưa được rồi rào lại kém khí phách anh hùng.
- Vậy xin đại huynh phủ chính cho. Hay hơn nữa xin hiền huynh, hiền đệ mỗi
người họa lại một bài cho bữa tiệc này thêm vui.
Lê Báo nhanh nhẫu đáp:
- O? Phải đấy?
Quang Ngọc mỉm cười:
- Vậy xin nhường chú ba họa lại. Còn Ngọc này thì đành thú thực rằng văn thơ
rất kém, địch sao nổi tài Chiêu Lỳ.
- Hiền huynh nhún nhường quá?
Nhưng Lê Báo đã cầm thìa gõ vào miệng bát, đọc luôn:
Anh Phạm làm như chẳng biết gì,
Hỏi anh, anh cứ giả ù lì.
Trông thì có vẻ nhà nhân đạo,
kỳ thực ra tuồng loại xú ê.
Thơ thánh ngâm nga không thiếu vận,
Rươu thần nốc cạn kể hàng be,
Đương trai sao đã lo khi chết
Còn tám mươi năm hãy sống đi.
Quang Ngọc cười ngất, nhưng Phạm Thái lặng lẽ rót đầy chén rượn mà nói
răng:
- Ba chữ "loại xú ê" thì phải phạt đủ tam bôi.
Lê Báo chữa thẹn:
- Phạt gì chớ phạt rượn thì ngu đệ không lo lắm. Nhưng vận "ê" của hiền
huynh cũng xét lại cho ngu đệ được nhờ.
Tuy nói vậy mà chàng cũng uống luôn ba hơi cạn ba chén rượn phạt.
Quang ngọc bảo Phạm Thái:
- Thơ Lê hiền đệ tuy không được hay, nhưng mà có hậu. Hai câu kết thực đã
làm cho bài thơ của Phạm hiền đệ bớt sai: "Còn tám mươi năm hãy sống đi" là là
phải lắm, chứ sao lại nói gỡ "chết côn đi" được?
Phạm Thái mỉm cười:
- Vậy xin phép hiền huynh trưởng cho chú ba sáu chén rượn nữa.
Lê Báo chau mày xua tay:
- Thưởng với phạt sao lại giống nhau thế được. Họa chăng có phạt Trần đại
huynh ba chén về tội không hoạ thơ thì còn có lý.
Phạm Thái hỏi Quang Ngọc:
- Vậy Trần đại huynh nghĩ sao? Chẳng laẽ lại trốn rượn phạt. Hay là thế này
này, câu chuyện tức cười mà hiền huynh chưa bao giờ chịu kể cho ngu đệ nghe,
nay nhân tiện có Lê hiền đệ đây, đại huynh đem thuật ra mà thế vào bài thơ là ổn.
Lê Báo vui mừng hỏi:
- Truyện gì mà bí mật thế, Phạm đại huynh?
- Truyện tu hành của một vị sư ông.
Quang Ngọc cười đáp:
- Xin hiền đệ đừng tưởng Quang Ngọc này không làm nổi thơ. Chẳng qua chí
ngu huynh còn để cả chổ khác, có tĩnh tâm mới làm được thơ hay, chứ làm bậy
làm bạ chỉ tổ bị phạt rượn?
Lê Báo thấy Quang Ngọc riễu mình thì tức giận nói bướng:
- Chẳng qua hiền huynh nói khoác. Có giởi cứ hoạ thơ đi đã nào?
Phạm Thái mỉm cười:
- Lại xin phạt Lê hiền đệ một chén rượn về tội xúc phạm huynh trưởng.
- Có phải nhị vị đại huynh về bè với nhau để công kích ta chăng?
Phạm Thái vẫn tươi cười:
- Lê hiền đệ có lẽ say rượn.
Thấy Lê Báo có tính lỗ mãng, Quang Ngọc liền giải hoà:
- Thôi xin hai hiền đệ, lỗi tại ngu huynh cả. Vậy cố nhiên là ngu huynh phải kể
câu truyện đã hứa.
Lê Báo hết giận, vỗ tay reo:
- Ư, có thế chứ? Nếu không, ta băt đấu võ liền, mà đấu võ thì ta chấp hai anh
một bên.
Quang Ngọc biết Lê Báo say lắm rồi, liền vui vẻ cười vang nói đùa:
- Lê hiền đệ nên để dành lực lượng với võ nghệ, có lẽ tối hôm nay phải dùng
đến. Bây giờ hãy xin lắng tai nghe câu truyện khôi hài của ngu huynh.
Lê Báo cười:
- Truyện khôi hài chắc là nhạt thếch.
Phạm Thái đỡ lời:
- Thì cứ để Trần đại huynh kể đã nào.
Quang Ngọc giốc cạn chén rượn đầy, rồi nói rằng:
- Ba năm trước đây, một khách chinh phu niên thiếu lang thang trên con đường
gió bụi. Chàng ta đi xa cửa xa nhà tìm chốn trú thân.
"Cha chàng vừa qua đời, mà lúc qua đời, chàng không gặp mặt, qua đời một
cách thảm khốc đầu bị rời mình nơi pháp trường...
Lê Báo ngắt lời:
- Thì cứ nói ngay là bị chém có giản dị hơn không!
Nhưng thấy Quang Ngọc ngồi yên, cặp mắt đỏ ngầu dữ tợn, đăm đăm nhìn nơi
chân trời xa tắp, thì chàng lấy làm sợ hãi im ngay. Bỗng Quang Ngọc cười sằng
sặc một hồi, rồi kể tiếp:
- Một buổi chiều, tâm hồn ngây ngất, chàng thiếu niên bỏ lỏng dây cương để
mặc ngựa theo con đường hẻm, cỏ rậm, muốn mang đi đâu tuỳ ý. Chàng đưa cặp
mắt mỏi mệt nhìn sắc trời tà đỏ ửng mà đoái tưởng lại thời oanh liệt theo cha tung
hoành trong hai trấn Đông, Bắc.
"Cái vỏ kiếm lách cách đập vào yên ngựa lại nhắc tới những bài ca chàng
thường hát để tự phấn khởi tâm hồn trong khi thất vọng. Chàng liền kìm cương.
Rút thanh kiếm báu giơ lên múa. Toan cất lời ca thì xa xa có tiếng chuông rời rạc,
buồn tẻ, như gieo vào lòng chàng sự hư vô chán nản. Chàng thong thả tra kiếm
vào vỏ rồi theo tìm nơi có tiếng chuông.
"Trời nhá nhem tối, thiếu niên tới chân một quả đồi. ở lưng chừng có một ngôi
chùa. Tiếng chuông đổ hồi từ trên cao gieo xuống, gieo vào lòng khách chính phu,
làm cho tắt hẳn ngọn lửa đương bùng bùng cháy.
"Thiếu niên xuống yên, buộc ngựa ở cửa tam quan. Chờ lâu vẫn không thấy có
người ra, mà gọi cửa cũng không ai thưa. Mãi sau, khi chàng quay đi mới có một
nhà sư ở gian phòng trai bước tới. Người ấy nói mình chỉ là sư bác, còn sư cụ thì
chơi vắng phương xa. Chàng liền nhờ sư bác cho ở trú một đêm, sáng hôm sau lại
xin đi sớm, nhưng sư bác nhất định không thuận, nói không có phép sư cụ thì
không thể tự tiện để khách thập phương ngủ trọ trong chùa được. Ngôn ngữ, cử
chỉ, nhất là sức vóc của nhà sư khiến chàng trẻ tuổi phải nghĩ thầm: "Quái? Sao đi
tu mà hỗn xược dữ tợn đến thế?"
"Chẳng muốn nói khó, chàng tuổi trẻ lẳng lặng xuống đồi, ra cửa tam quan.
Nhưng, ôi thôi? Con ngựa buộc đó đã biến đâu mất, mà lạ nữa, nghe xa xa có tiếng
ngựa phi nước đại về phía làng Nỗi duệ. Chàng biết dẻ trộm vừa tốn thoát. Bực tức
uất người, nhất là từ trên chùa lại ném xuống những tiếng cười mai mỉa. Chàng lộn
tiết chạy một mạch lên đồi, lại gần sư bác sừng xộ hỏi:
- "Sao ngươi biết ta mất ngựa lại cười?
- "Ta cười thì có can dự gì đến ai?
"Chàng tuổi trẻ mắm môi trợn mắt, giọng đe dọa:
- "Có can dự đến ta. Nếu ngươi không bảo cho ta biết đứa nào bắt trộm ngựa
của ta thì ta thề xin đưa linh hồn người lên Nát bàn ngay lập tức.
"Nhà sư cười ha hả đáp lại:
- "Mi làm như Nát bàn của nhà mi gần lắm? Dẫu sao, xuống địa ngục vẫn đễ
dàng hơn, vậy nếu mi muốn xuống thì cứ việc ỡm ờ đứng lại.
"Chẳng nói chẳng rằng, chàng tuổi trẻ tuốt ngay kiếm ra. Nhà sư ý chừng đã
phòng bị trước, cũng giơ ngay cây búa dấu sẵn trong vạy áo ra. Hai người đánh
nhau được một hồi, thì nhà sư biết sức không chống nổi quay đầu chạy. Chẳng
may chân vướng cỏ khô, vấp ngã bổ chửng. Chàng trẻ tuổi liền nhanh nhẹn dẫm
chân lên ngực hắn rồi dí mũi kiếm vào ngực hắn mà dọa rằng:
- "Ai lấy trộm ngựa ta?
"Bất giác nhà sư kêu rống lên. Tức thì ba chú tiểu lực lưỡng ở nhà trai chạy ra.
Chàng tuổi trẻ cả tiếng thét lớn:
- "Nếu chúng mày lại gần hay kêu cầu cứu thì trước hết tao hãy thí cho thày
chúng mày một mũi kiếm đã, rồi tao giết chết hết chúng mày như giết một đàn
ngoé.
"Bọn tiểu thất kinh quỳ cả xuống lạy van xin "công tử" xá cho sư bác. Còn lão
sư thì luôn mồm kêu: "Nam vô a di đà phật? Lạy ngài tha tội cho bần tăng, bần
tăng thứ hết, Nam vo a di đà phập ? "
"Chàng tuổi trẻ lộn ruột vì mấy tiến Nam vo a di đà phập của lão ác tăng, đã
toan đưa lưỡi kiếm vào cổ hắn, nhưng nghĩ đến con ngựa bị mất trộm chàng lại
thôi
Lê Báo vui vẻ giốc cạn chén rượn rồi vỗ tay reo:
- ồ ? Ngộ lắm nhỉ ? Ngu để tưởng như trông thấy ở trước mắt một tráng sĩ dẫm
chân lên ngực một nhà sư, gần đấy, ba chú tiểu quỳ gối chắp tay van lơn. Thực là
một bức tranh linh hoạt của một họa sĩ đời Chiến quốc.
Phạm Thái thì lâm râm cầu nguyện, có vẻ cảm động xót thương. Mãi sau,
chàng mới ôn tồn bảo Quang Ngọc:
- Nếu trang thiếu niên kia không là hiền huynh thì ngu đệ xin bảo chàng ta là
một người lỗ mãng, dám quý con ngựa hơn mạng một nhà sư, dù là một nhà sư ăn
trộm.
Quang Ngọc cười đáp:
- Nhưng hằn ta có lấy trộm ngựa của chàng tuổi trẻ đâu?
- Vậy ai lấy?
- Không ai lấy cả. Nhà sư sợ hãi thú thật với chàng tuổi trẻ rằng giữa lúc chàng
lên chùa thì sư cụ đi ra cửa sau vòng ra tam quan thấy có con ngựa tốt, liền mượn
tạm vì có chút việc cần. Nhà sư lại mời chàng tuổi trẻ hãy vaò nghĩ trong phòng
quan cư để chờ một lát nữa sư cụ về.
"Chàng tuổi trẻ đoán rằng nhà sư muốn cạm bẫy mình để trả thù cho bỏ ghét,
nhưng đấng trượng phu ngang tàng há sợ chì? Vả chàng cũng muốn dò xét ngôi
chùa còn giấu diếm những sự bí mật ghê gớm gì nữa chăng, vì cứ ngắm cái cử chỉ
bất chíng của vị sự cụ mượn ngựa bắng một cách hơi khác thường để đi chơi đêm,
chàng cũng đoán biết rằng chùa này không phải là một nơi tu hàng của các bậc đồ
đệ tôn sùng đức Thích Ca.
"Chàng bèn theo sư bác vào phòng trai. Tức thì các chú tiểu xúm xít hầu hạ, kẻ
lấy thau, người pha nước. Nhưng chàng không dám uống nước, sợ trong đó có
thuốc mê. Và lúc nào chàng cũng nhăm nhăm cầm thanh kiếm tuốt trần ở tay để
phòng ngừa sự phản trắc.
"Chờ mãi tới cuối giờ Tuất cũng không thấy gì, chàng liền đóng cửa phòng tắt
đèn đi ngủ. Kỳ