Chiều hôm ấy, trước trại lính phủ Từ Sơn, người lính, nón sơn, quần áo chẽn,
mỗi người cầm một cây tre dài bịt vải đứng xếp hàng chữ nhất. Khi đã tập một lúc
về đủ các miếng đâm trên, đánh dưới, phạt ngang thì người đội chọn từng cặp sức
tương đương cho ra dấu với nhau.
Biết rằng có viên phân suất đứng trên mặt thành nhìn xuống, thầy đội, làm ra
bộ ta đây giỏi võ, nắm tay người này, kéo chân kẻ khác hò hét, dạy bảo, mắng
nhiếc luôn miệng:
- Chú đứng tấn trống quá. Mũi roi chúc xuống thế này thì người ta khẽ bẩy
một cái cũng băng cả roi đi, còn đánh chác gì...
Viên phân suất từ trên thành đi xuống, lại gần đội cơ ban lời khen ngợi. Được
thể, đội ta càng lên mặt:
- Bẩm ông lớn, với năm mươi tên lính giỏi võ, tôi có thể chống nổi mấy trăm
quân Ô hợp, chẳng nói đâu xa, giá tối hôm qua năm người canh phòng trong tửu
quán đều là lính tôi luyện tập thì có đâu đến nỗi bị giặc giết như ngoé thế? Đấy,
ông lớn cứ tin lính trấn giỏi ?
Phân suất hỏi:
- Ngày mai bản chức thân giải Thị Kim lên trấn lỵ, vậy anh tính nên cho bao
nhiêu lính hộ tống cũi tội nhân?
- Bẩm chỉ cho mười tên đi là chắc chắn lắm rồi - mười tên với tôi nữa là mười
một thì dẫu giặc mang trăm binh đến đánh giải vây cũng không lo.
Phân suất gật đầu, mỉm cười:
- Anh nên hết lòng làm việc quan. Thế nào ta cũng tự thăng thưởng cho... à?
Hai mươi tên lính mới mộ này đã biết gì chưa?
- Bẩm ông lớn, khá lắm rồi, xin ông lớn đứng coi.
Liền hô cho bọn lính tập các miếng trông rất đều và ngoạn mục. Phân xuất vẫy
tay cho bọn lính vào trại nghỉ, rồi hỏi đội cơ:
- Anh có dạy tập đoản côn, đoản đao đấy chứ?
- Bẩm, có cả. Cả bắn cung nữa. Còn bắn súng hỏa mai thì vì ở phủ này quan
hiệp trấn phát cho có năm cây, nên tôi đã chọn mười người giỏi nhất, nhanh nhẹn
nhất mà dạy tập thôi.
Phân suất mỉm cười:
- Ta cũng không tin gì ở hiệu quả súng hỏa mai. Trong tận Tiên đế đánh nhau
với Tôn Sĩ Nghị, bên địch có tới hàng nghìn cây súng còn bên ta chỉ dùng toàn dáo
dài, mã tấu, thế mà quân kia thua chạy không còn một mảnh giáp thì đủ biết đoản
binh vẫn lợi hại hơn trường binh nhiều.
- Bẩm ông lớn, nhưng giữ thành thì súng hỏa mai được cái lợi bắn xa lại trúng
hơn cung, nỏ nhiều. Còn như bấn cây súng thần công đặt bốn góc thành, thì thực là
vô ích, xoay xở đã chậm mà bắn lại không trúng. Chỉ được cái tiếng to để dương
oai với bên địch.
- Kể ra khi có quân giặc kéo đến hàng nghìn hàng vạn thì súng thần công cũng
có lợi: Bắn bừa vào đám đông người, thế nào chẵng trúng. Nhưng phủ này thì trừ
khi trấn Kinh Bắc có thất thủ, địch quân mới kéo binh đến vây. Mà nếu Kinh Bắc
đã thất thủ, thì Từ Sơn cũng chẳng cố thủ với ai được. Thành thử súng thần công
có đó cũng như không. Còn như súng hỏa mai thì một trận Ngọc hồi đủ chúng tỏ
rằng đó là những binh khí vô dụng.
- Bẩm, nghe đâu ông lớn cũng có dụ chiến trận ấy?
- Có Ta theo Tiên đế ngay sau trận Cẩm Thủy. Bấy giờ, ta ở trong toán nghĩa
quân của nhà Lê. Tiên đế vừa sang sông thì quân nhà Lê vỡ lở ngay. Ta cùng vài
bạn đồng chí đến xin hàng Tiền đế mà bấy lâu nay ta vẫn mộ tiếng anh hùng, ao
ước được gập long nhan, nhất từ ngày ta đem lòng khinh bỉ Chiêu Thống đã rước
quân ngoại quốc về giầy xéo người đồng bang. Thế là ta theo Tiên đế đến đánh
Phú Xuyên, đến vây Hà Hồi. Trận Hà Hồi cũng như trận Phú Xuyên không có chi
là đáng kể. Tiên đế đến, giặc trông thấy bóng cờ là đem hết quân lương, binh khí
ra hàng răm rắp, chẳng phải đánh chác gì.
- Bẩm, còn trận Ngọc Hồi? Nghe nói trận ấy đánh hăng hái lắm.
- Phải, hăng hái lắm là vì quân Tàu có rất nhiều súng hỏa mai.
Đôi cơ mỉm cười:
- Đó, ông lớn coi, súng hỏa mai vẫn lợi hại.
Phân suất cau mày:
- Ta đã bảo không ăn thua gì mà lại. Sáng tờ mờ ngày mồng năm, quân ta tiến
lên tới làng Ngọc Hồi, quân tàu bắn súng ra như mưa. Đến đây, anh mới nhận thấy
mưu lược Tiên đế. Ngài sai lấy những mảnh ván, ghép ba bốn mảnh vào làm một,
quấn một lần rơm ướt ở phía ngoài rồi truyền một toán quân kiêu dõng, cú hai
mươi người khiên một bức, mỗi người dắt một con dao nhọn, lại hai mươi người
cầm khí giới theo sau. Ta cũng tình nguyện nhập bọn này nên mới biết rất tường
tận Đạn bên địch bắn ra vẫn vun vút rào rào, nhưng chỉ trúng bồm bộp vào ván
quấn rơm chứ không thiệt một mạng người. Anh coi đó, súng có ích lợi gì đâu.
Khi đến gần cửa đốn toán quân ta liền bỏ ván xuống đất, rút dao ra, xong lại chém
giết, quân đi sau kéo ùa vào trợ lực, còn vua ta thì cười voi theo sau đốc chiến.
Quân Tàu địch không nổi, vút cả súng mà chạy tán loạn. Quân ta thừa thế đánh
tràn đi, lấy được đồn, giết quân Thanh, thây rải khắp đồng. Sau điểm binh khí bắt
được thì số súng hỏa mai có trên năm trăm cây.
Lúc đó, một tên lính lệ hầu trà chạy ra nói với phân suất:
- Bẩm, phủ đường cho ra mời đại nhân vào phòng khách xơi nước.
Phân suất lật đật theo tên lính đi vào nhà trong. Sau khi vui vẻ chào mời, hỏi
thăm qua loa về cách việc binh lương, phân phủ truyền cho hết cả người nhà ra
ngoài rồi thì thầm bảo phân suất:
- Về việc bắt được Lê hoàng phi họ Nguyễn, ngài có ý kiến gì không?
Phân suất ngẫm nghĩ, trả lời:
- Thưa ngài, không. Vả ta chỉ việc giải tù nhân lên trấn lỵ là xong.
Phân phủ mỉm cười:
- Thế là ngài thiển cận quá. Ngài nên biết tù nhân nào phải người tầm thường.
Nàng Nguyễn thị Kim này xưa kia được Chiêu Thống sủng ái vì có tấm nhan sắc
nghiêng nước nghiêng thành. Buổi sinh thời đức Tiên đế ta nóng đánh trấn Tuyên
Quang làm loạn biết đâu không phải vì ở đó có bực mỹ nữ ấy ẩn núp. Nhưng khi
ngài bắt được Duy Chí thì Lê hoàng phi lại trốn được. Nay viên ngọc quý ấy lọt
vào tay ta, mà ta không biết lợi dụng thì thực cũng uỗng.
- Vậy ý ngài tính ra sao?
- Tôi thiết tưởng chúng ta đã trải qua bao khó nhọc mới tới được chức này, tôi
thì nhờ có Bình phái hầu Ngô Thị Lang tiến cử, còn ngài thì nhờ sự xông pha mũi
tên hòn đạn tại trận tiền. Thế mà dịp này còn bằng mấy lời tiến cử cùng là những
sự hiểm nghèo ở nơi chiến địa, có thể nhảy ngay đến chức trấn thủ, hiệp trấn cũng
chưa biết chừng. Nhưng...
- Nhưng sao nữa, thưa ngài?
- Nhưng nếu chúng mình chỉ sơ ý