Trò Chơi Vương Quyền

Chương 106-107


trước sau

Chương 106: Chương 33

CHƯƠNG 33: CATELYN

Trước khi họ đến được ngôi làng thì trời đã tối đen. Catelyn âm thầm tự hỏi liệu ngôi làng này có tên không. Mà nếu có thì nó cũng theo dân nàng đi chạy nạn rồi, cùng với tất cả mọi thứ họ sở hữu, bao gồm ngay cả những ngọn nến ở nhà thờ. Hiệp sĩ Wendel thắp một ngọn đuốc rồi dẫn bà đi qua một cánh cửa thấp.

Bên trong nhà thờ, bảy bức tường đã bị đập nát vỡ. Chúa luôn có vị trí số một với bảy trạng thái khác nhau, Nữ tu sĩ Osmynd đã từng dạy bà như thế khi bàn còn nhỏ, giống như thánh đường là một kiến trúc duy nhất, với bảy bức tường. Những nhà thờ nhộn nhịp của các thành phố luôn có bảy thiên chúa với những bức tượng của riêng mình, mỗi người đều có bàn thờ riêng. Tại Winterfell, Nữ tu sĩ Chayle thường gắn những mặt nạ được điêu khắc khác nhau vào mỗi bức tường. Nơi đây, Catelyn chỉ nhìn thấy những bản phác thảo thô. Hiệp sĩ Wendel gắn cây đuốc vào cánh cửa bên cạnh cửa chính, rồi lui ra đợi bên ngoài cùng với Robar Royce. Catelyn nghiên cứu các khuôn mặt trên tường. Thánh Cha (The Father) vẫn có râu như mọi khi. Thánh Mẫu (The Mother) mỉm cười hòa ái. Thánh chiến binh (The Warrior) cầm kiếm giơ trước mặt. Thánh thợ rèn (The Smith) có cây búa của mình. Thánh đồng trinh (The Maid) trông vẫn đẹp. Thánh Lão (The Crone) trông gầy và cơ trí.

Và khuôn mặt thứ bảy… Thánh Khách (the Stranger) khuôn mặt không phân rõ nam hay nữ, ngay cả thân thể cũng thể như là một người du mục đến từ nơi xa, là người nhưng không hẳn là người, quen mà lạ, lạ mà quen. Ở đây khuôn mặt có hình ovan đen, hai đôi mắt tối với những vì sao trong đó khiến Catelyn cảm thấy không thoải mái chút nào. Bà cảm thấy bất an và không tìm thấy sự an ủi trong đó.

Bà quỳ gối trước Thánh Mẫu. “Mẹ của con, xin hãy nhìn trận chiến này bằng đôi mắt từ mẫu. Tất cả họ đều là con trai của người, mỗi người họ. Xin hãy chăm sóc họ, chăm sóc con trai con. Xin người hãy giúp con trông nom Robb, Bran và Rickon như con ở bên cạnh chúng.”

Một vết nứt xuất hiện trên con mắt trái của Thánh Mẫu như thể bà đang khóc. Catelyn có thể nghe thấy âm thanh sang sảng của Hiệp sĩ Wendel, thỉnh thoảng là những câu trả lời nhẹ nhàng của Hiệp sĩ Robar khi họ nói chuyện về trận chiến sắp tới. Phần còn lại của đêm vẫn yên lặng khiến cho người ta có thể nghe thấy cả tiếng dế kêu. Các chư thần vẫn trầm mặc. Bà tự hỏi: Ned, anh có nghe thấy các cựu thần trả lời? Khi anh quỳ gối trước cây tâm thụ, liệu họ có nghe lời anh thỉnh cầu?

Ánh sáng của ngọn đuốc lắc lư nhảy nhót trên tường, khiến cho các khuôn mặt trở nên sống động, ánh sáng xoắn vặn các khuôn mặt khiến chúng thay đổi. Những bức tượng thuộc về các nhà thờ lớn tại những thành phố luôn được các thợ khắc đầu tư công sức và tâm trí nhưng tại đây khuôn mặt chúng trở nên thô kệch, không đặc trưng khiến chúng trông có thể giống bất kỳ ai. Thánh Cha khiến bà nhớ đến Cha mình đang nằm chết dần chết mòn ở Riverrun. Thánh Chiến Binh có thể là Renly và Stannis, Robb và Robert, Jaime Lannister và Jon Snow. Hoảng hốt trong phút chốc bà còn nhìn thấy cả Arya trong đó. Một cơn gió mạnh thổi qua khe cửa khiến ngọn đuốc chấp chới khiến ý tưởng vừa xuất hiện của bà nhanh chóng tan đi, biến mất trong dòng sáng màu cam.

Khói khiến đôi mắt bà cảm thấy đau nhức, và bà lấy tay chà mắt. Rồi khi nhìn lên Thánh Mẫu bà lại thấy như nhìn thấy chính mẹ mình. Phu nhân Minisa Tully đã chết khi sinh sản đứa con trai thứ hai của Lãnh chúa Hoster. Đứa bé đã ra đi cùng với mẹ mình cùng với nó là một phần cuộc đời của Cha. Bà luôn tĩnh lặng, Catelyn nghĩ, nhớ đến đôi bàn tay mềm mại và nụ cười ấm áp của mẹ. Nếu bà còn sống, thì cuộc đời của chúng ta có thể sẽ khác. Bà tự hỏi Phu nhân Minisa sẽ hiểu đứa con gái cả của bà đang quỳ ở đây trước bà không? Mình đã bôn ba hàng ngàn dặm đến đây là vì cái gì? Vì ai? Mình đã mất các con gái, Robb không cần mình, Bran và Rickon chắc chắn nghĩ mình là một bà mẹ lạnh lùng và vô tâm. Thậm chí mình còn bên cạnh Ned khi anh ấy chết…

Bà cảm thấy chóng mặt, thánh đường như quay xung quanh. Những cái bóng lắc lư, quay đều, những động vật lạ lùng nhảy nhót trên những bức tường trắng vỡ. Catelyn đã không ăn gì cả ngày hôm nay. Có lẽ bà đang trở nên không sáng suốt. Bà tự biện luận rằng mình không có thời gian nhưng thực tế, đối với bà, thức ăn đã mất đi hương vị kể từ khi Ned qua đời. Khi bọn họ chém đầu ông ấy, họ cũng giết luôn mình.

Ngọn đuốc bất chợt chuyển dịch về phía trước và Thánh Mẫu mơ hồ mang khuôn mặt của chị gái bà, dù đôi mắt cứng cỏi hơn so với trong trí nhớ của bà, đôi mắt đó giống của Cersei hơn là của Lysa. Cersei cũng là một bà mẹ, dù Cha bọn trẻ có là ai, thì bà ta chắc cũng phải cảm nhận được đứa trẻ đá trong bụng mình trong những tháng ngày mang thai, cũng phải đau nhức và chảy máu khi sinh, cũng phải cho chúng bú sữa. Nếu chúng thực sự là con của Jaime…

“Cersei liệu có cầu ngài không, thưa phu nhân?” Catelyn hỏi Thánh Mẫu. Bà có thể nhìn thấy những nét kiêu ngạo, lạnh lùng, đáng yêu của hoàng hậu Lannister phản chiếu trên tường. Vết nứt vẫn còn đó, dù Cersei cố giấu vì các con mình. “Bảy chư thần là một, một chư thần có bảy,” Nữ tu sĩ Osmynd đã từng nói với bà như vậy. Thánh Lão vẫn còn rất đẹp cũng như Thánh đồng trinh và Thánh Mẫu có thể hung tợn hơn Thánh Chiến Binh khi những đứa con của mình trong vòng hiểm nguy. Đúng vậy…

Tại Winterfell bà đã quan sát kỹ Robert Baratheon để biết rằng nhà vua không hề đối xử ấm áp với Joffrey chút nào hết. Nếu thằng bé đó thực sự là dòng giống của Jaime, Robert chắc chắn sẽ trị nó vào chỗ chết cùng với mẹ, và không ái dám phản đối việc này. Những đứa con hoang có thể bị coi thường nhưng loạn luân là tội lỗi không thể tha thứ được với cả cựu thần và tân thần, và những đứa trẻ sinh ra từ hành động tội lỗi đó bị cấm bước chân vào các thánh đường và khu rừng của các chư thần.

Các vị vua rồng cũng từng thông hôn với chị/em gái mình nhưng họ làm thế để bảo vệ dòng máu Valyria thuần khiết, khi đó tập tục này được cho là hành động thông thường, và giống như những con rồng, gia tộc Targaryen cao ngạo không lắng nghe lời cả các chư thần và người dân.

Ned chắc chắn đã biết việc này, và cả Lãnh chúa Arryn nữa. Không trách gì hoàng hậu đã giết cả hai bọn họ. Nếu là mình thì mình có làm giống bà ta không? Catelyn nắm chặt tay, cảm giác được cả sự thô ráp của những ngón tay bị thương do vết cắt sâu đến tận xương khi bà lao ra cứu đứa con trai của mình. “Bran cũng biết,” bà thì thầm, gục đầu. Lạy các chư thần, nó phải nhìn thấy gì đó, nghe thấy gì đó và đó là lý do bọn họ đã cố giết nó ngay trên giường bệnh.

Đói và kiệt sức, Catelyn Stark lao mình vào vòng tay của các chư thần. Bà quỳ gối trước Thần thợ rèn, người có trách nhiệm hàn gắn những hư hỏng tan vỡ và cầu xin ông bảo vệ cho Bran đáng yêu của bà. Bà đi đến Thần đồng trinh và cầu xin bà ban lòng dũng cảm cho Arya và Sansa, bảo vệ sự thuần khiết của hai đứa trước bọn họ. Bà tới Thánh Cha cầu xin công lý, sức mạnh để tìm kiếm công lý và trí tuệ để nhận biết công lý, bà cầu xin Thần Chiến Binh ban cho Robb sức mạnh, bảo vệ nó trong các trận chiến.

N.g.u.ồ.n. .t.ừ. .s.i.t.e. .T.r.u.y.e.n.G.i.C.u.n.g.C.o...c.o.m. Cuối cùng bà quay đến Thần Lão, bức tượng luôn một tay cầm đèn. “Xin hãy chỉ dẫn cho con, người phụ nữ khôn ngoan,” bà cầu nguyện, “xin hãy chỉ cho con con đường phải đi, và đừng để con lạc lối ở những nơi tối tăm.”

Sau một lúc lâu, tiếng bước chân xuất hiện sau lưng bà và cả tiếng cánh cửa mở ra. “Phu nhân,” hiệp sĩ Robar lịch sự, “xin tha thứ đã làm phiền bà nhưng thời gian đã hết. Chúng ta phải quay lại trước bình minh.”

Catelyn đứng lên một cách cứng cỏi. Đầu gối bà đau nhức và bà chỉ muốn nằm xuống một cái giường và gối êm ái ngay tức thì. “Cảm ơn hiệp sĩ. Tôi sẵn sàng rồi đây.”

Họ im lặng cưỡi ngựa xuyên qua khu rừng thưa thớt nơi những cây cao vươn lên đón gió từ biển thổi vào. Những tiếng hí lo lắng của đàn ngựa và tiếng vũ khí va chạm vào nhau giúp họ định hướng tiến về doanh trại của Renly. Hàng đoàn dài người và ngựa mặc áo giáp trong bóng tối. Bóng đêm đen kịt như thể Thần Thợ rèn đã mang nó vào trong sắt. Có những là cờ hiệu bay ở phía bên phải, có lá cờ bay ở phía bên trái, phía trước cũng là hàng loạt cờ hiệu, nhưng trong bóng tối đen như mực này, bà không phân biệt được bất kỳ màu sắc hay huy hiệu nào. Một đội quân xám, Catelyn nghĩ. Những con người xám cưỡi trên những con ngựa xám đi dưới những cờ hiệu xám. Khi bọn họ ngồi đợi trong yên lặng, các hiệp sĩ bóng tối của Renly cầm trường thương giơ cao, bà cưỡi ngựa vượt qua cánh rừng gồm toàn những cây gỗ trọc do bị tước lá và sức sống. Nhìn lại, Storm’s End sừng sững trông càng thâm trầm hắc ám, những bức tường đen không cách nào phản xạ ánh sáng của những ngôi sao, chỉ thấy những ánh đuốc chuyển động trên các cánh đồng nơi Lãnh chúa Stannis đang đóng trại.

Những ngọn nến trong lều của Renly tỏa ánh sáng lấp lánh phản quang qua những bức tường lụa khiến nó thêm to lớn, phát ra màu xanh lá như lâu đài ma thuật. Hai trong số cận vệ của Đội Bảo Vệ Cầu Vồng (Rainbow Guard) đứng canh ở cửa lều. Ánh sáng xanh chiếu trên chiếc áo choàng tím của Hiệp sĩ Parmen khiến nó mang thành màu xanh lá cây lạ lùng và chiếu trên chiếc áo giáp màu vàng tươi của Hiệp sĩ Emmon khiến nó trông thật bệnh hoạn. Bọn họ đội mũ sắt có gắn những sợi lông làm giả bằng lụa dài, khoác những chiếc áo choàng theo màu cầu vồng trên vai.

Bên trong lều, Catelyn thấy Brienne đang giúp nhà vua mặc trang phục chiến trận trong khi đại nhân Tarly và Rowan bàn luận về chiến thuật triển khai. Không khí trong này thật ấm áp, mười hai chiếc bếp lò bằng sắt chứa đầy than đang cháy tỏa nhiệt. “Bệ hạ, tôi cần phải nói chuyện với ngài,” bà nói, đây là lần đầu tiên bà gọi danh hiệu mới của hắn, dù hắn chưa hề bắt buộc bà phải gọi thế.

“Phu nhân Catelyn, đợi một chút,” Renly trả lời. Brienne đưa mặt sau áo giáp khít với mặc trước. Chiếc áo giáp của nhà vua có màu xanh sậm, màu xanh của lá cây trong rừng mùa hè, dưới ánh nến trông thật thâm trầm. Theo mỗi chuyển động của nhà vua, những chiếc cúc vàng lóe lên như thể những ngọn lửa trong rừng. “Đại nhân Mathis, xin cứ tiếp tục.”

“Bệ hạ,” liếc mắt nhìn Catelyn, Mathis Rowan nói, “như thần đang nói, quân đội của chúng ta đã sẵn sàng chiến đấu, tại sao phải chờ đến bình minh? Xin hãy thổi kèn lệnh.”



“Và mọi người sẽ nói ta thắng nhờ bội tín và đánh lén? Thời gian ước định là bình minh.”

“Đó là thời gian Stannis chọn,” Randyll Tarly nói, “hắn muốn sử dụng ánh mặt trời khiến chúng ta chói mắt. Lúc đó chúng ta ở trạng thái bán mù.”

“Chỉ trong khoảnh khắc thôi,” Renly tự tin. “Hiệp sĩ Loras sẽ ngăn được chúng, rồi sau đó sẽ là hỗn chiến,” Brienne buộc chặt dây thắt lưng và cài nút, “khi anh trai ta thua trận, đừng cho kẻ nào xúc phạm đến thi thể của anh ấy. Anh ấy có dòng máu của ta. Ta không cho phép đầu anh ấy bị treo trên cây thương.”

“Nếu ông ấy đầu hàng thì sao?” Đại nhân Tarly hỏi.

“Đầu hàng ư?” Đại nhân Rowan cười lớn. “Khi Mace Tyrell vây Stannis ở Storm’s End, ông ấy đã thà ăn chuột còn hơn mở cổng thành”

“Ta nhớ rất rõ chuyện này,” Renly nâng cằm để Brienne siết chiếc áo giáp chặt hơn. “Khi gần hết hy vọng, hiệp sĩ Gawen Wylde và ba hiệp sĩ dưới quyền đã cố hợp mưu mở một cánh cổng phụ để đầu hàng. Stannis bắt được bọn họ và ra lệnh cho đầu bọn họ lên súng bắn gắn trên tường thành. Ta vẫn còn nhớ rõ khuôn mặt của Gawen khi họ dùng nó để huấn luyện.”

Đại nhân Rowan có chút mơ hồ. “Không ai bị ném ra từ tường thành. Tôi nhớ rất rõ.”

“Học sĩ Cressen đã khuyên Stannis rằng chúng ta có thể buộc phải ăn cả thi thể đồng bạn và không nên ném miếng thịt tốt đi,” Renly đưa mái tóc ra phía sau và Brienne buộc chúng bằng dải ruy băng, đặt một vòng nhỏ dưới tai để giảm trọng lượng của mũ bảo hộ. “Nhờ tay Hiệp sĩ Hành (Onion Knight) mà chúng ta không bao giờ phải ăn những thi thể đó, nhưng lúc đó đã gần đến mức đó rồi. Nhất là Hiệp sĩ Gawen, hắn đã chết trong tù.”

“Bệ hạ,” Catelyn đã cố kiên nhẫn chờ nhưng thời gian không còn nữa. “Ngài đã hứa nghe tôi nói.” Renly gật đầu. “Các đại nhân, hãy cứ chiến đấu theo kế hoạch đã định… ồ và nếu nhìn thấy Barristan Selmy ở bên cạnh anh trai ta, hãy bắt sống ông ta.”

“Không có tin tức gì về hiệp sĩ Barristan kể từ khi ông ta chạy thoát khỏi Joffrey,” đại nhân Rowan nghi ngờ.

“Tôi biết lão già đó. Ông ta cần một vị vua để bảo vệ hoặc ông ta là ai chứ? Ông ta chưa bao giờ tìm đến với ta, và phu nhân Catelyn nói ông ta cũng không ở cùng Robb Stark tại Riverrun. Vậy ông ta còn ở đâu ngoài Stanis?”

“Tuân lệnh, thưa Bệ hạ. Ông ta sẽ không bị nguy hiểm đến tính mạng,” các tướng cúi đầu và xuất phát. “Phu nhân Stark, đến lượt bà,” Renly nói. Brienne cài áo choàng lên vai hắn, đó là chiếc áo choàng vàng, nặng nề, vẽ hình con nai đội vương miện, biểu tượng của nhà Baratheon.

“Gia tộc Lannister đã cố giết con trai tôi, Bran. Tôi đã tự hỏi hàng ngàn lần là tại sao. Giờ thì anh trai ngài đã cho tôi câu trả lời. Vào ngày nó xảy ra tai nạn đã có một cuộc đi săn. Robert và Ned cùng hầu hết mọi người cưỡi ngựa ra khỏi lâu đài, nhưng Jaime Lannister thì vẫn ở lại Winterfell, hoàng hậu cũng vậy,” Renlykhông bỏ qua ý ám chỉ của bà. “Vậy bà tin rằng thằng bé đã bắt gặp bọn họ loạn luân…”

“Bệ hạ, cầu xin ngài hãy cho phép tôi đến chỗ anh trai Stannis của ngài để đặt câu hỏi về những nghi ngờ của tôi.”

“Để làm gì?”

“Nếu ngài và anh trai ngài gác lại vương miện thì Robb cũng sẽ làm thế,” bà nói, hy vọng điều này là đúng. Bà phải làm được điều này. Robb sẽ nghe bà ngay cả khi các đại thần dưới quyền nó không muốn thế. “Ba người sẽ triệu tập Đại Hội Đồng/ Great Council, đế quốc đã không làm thế hàng ngàn năm nay rồi. Chúng ta sẽ tổ chức đại hội ở Winterfell, và Bran có thể kể câu chuyện của nó và tất cả mọi người sẽ biết gia tộc Lannister mới đích thực là kẻ tiếm quyền. Hãy để các quý tộc liên quan của bảy vương quốc tự quyết định ai sẽ là người cai trị họ.”

Renly cười lớn. “Phu nhân, hãy nói cho ta biết liệu những con sói vương có bỏ phiếu cho ai dẫn dắt đàn không?” Brienne mang găng tay và đội mũ chiến cho đức vua. Chiếc mũ được gắn gạc vàng cao 1.5 foot. “Thời gian trò chuyện hết rồi. Giờ thì xem ai mạnh hơn,” Renly đưa tay trái luồn vào chiếc găng tay màu xanh và vàng, Brienne quỳ xuống luồn thành kiếm dài và trủy thủ vào thắt lưng hắn.

“Nhân danh Thánh Mẫu, tôi cầu xin ngài,” Catelyn bất ngờ quỳ xuống khi gió thổi cánh cửa lều hất lên. Bà cảm thấy có gì đó đang chuyển động, nhưng khi ngoái đầu lại thì chỉ thấy bóng nhà vua đang lắc lư trên các bức tường lụa của căn lều. Bà nghe thấy tiếng Renly đang bắt đầu pha trò, chiếc bóng chuyển động, nâng thanh kiếm. Màu đen xen lẫn màu xanh, ánh nến nhập nhoạng, run rẩy, có gì đó rất lạ, rất sai và rồi bà nhìn thấy thanh kiếm của Renly vẫn ở thắt lưng, chưa ra khỏi vỏ nhưng còn cái bóng giơ kiếm…

“B… ệ… Không!” Brienne gào lên khi nhìn thấy dòng máu ma quỷ chải ra. Nhà vua đã ngã xuống vòng tay cô, một dòng máu chảy đẫm ra mặt trước chiếc áo giáp, màu đỏ tối che lấp màu xanh và màu vàng của nó. Nhiều ngọn nến đã tắt. Renly cố cất tiếng nói nhưng hắn bị máu của chính mình khiến cho nghẹt thở. Chân hắn khuỵu xuống, chỉ có sức mạnh của Brienne đỡ hắn đứng được. Cô nhìn lên gào to, đau đớn cùng cực.

Cái Bóng. Có gì đó tối tăm và hắc ám đang tồn tại ở đây, bà biết rõ điều đó, có gì đó bà không thể lý giải. Cái bóng kia không phải là của Renly. Tử thần đến từ cánh cửa ngoài kia, cướp đi sinh mạng của hắn nhanh như gió thổi tắt nến.

Chỉ vài giây sau, Robar Royce và Emmon Cuy lao vào, nhưng Catelyn cảm thấy giống như cả đêm đã trôi qua. Cả hai đều cầm đuốc và họ thấy Renly ngã trong vòng tay Brienne, cả người cô dính đầy máu của nhà vua. Hiệp sĩ Robar la hét. “Đồ nữ nhân độc ác!” Hiệp sĩ Emmon gầm lên, tay giơ cao cây kiếm. “Buông ông ấy ra, đồ ghê tởm!”

“Lạy các chư thần, Brienne, tại sao?” Hiệp sĩ Robar hỏi.

Brienne đang nhìn chằm chằm vào thân thể nhà vua, nhìn lên. Chiếc áo choàng cầu vồng của cô ở vài nơi đã nhuộm thẫm màu đỏ từ máu nhà vua. “Tôi… tôi…”

“Mày phải chết.” Hiệp sĩ Emmon rút ra một chiếc rìu cán dài từ đống vũ khí xếp cạnh cửa ra vào. “Mày sẽ phải đền mạng cho đức vua.”



“KHÔNG!” Catelyn Stark cuối cùng cũng tìm được giọng của mình, gào lên, nhưng tất cả đã quá trễ, bọn họ đều vì máu mà trở nên điên cuồng, bỏ qua những lời nói yếu ớt của bà.

Nhưng Brienne đã di chuyển với tốc độ bà không tin nổi. Thanh kiếm không ở trong tay cô, vì vậy cô rút thanh kiếm từ lưng Renly để đón lấy thanh rìu của Emmon đang bổ xuống. Tiếng thép chát chúa va chạm vào nhau và ánh lửa tóe ra. Brienne nhảy ra và thi thể nhà vua đổ sang một bên. Hiệp sĩ Emmon loạng choạng, sửng sốt, tranh thủ trong lúc đó Brienne chặt phăng đứt cây rìu khiến đầu rìu xoay tròn trên không trung. Đúng lúc này, một người dí ngọn đuốc vào phía lưng cô, nhưng chiếc áo choàng cầu vồng đã bị máu thẫm ướt nên không thể cháy được. Brienne quay lại cắt ngang ngọn đuốc, ánh sáng bay tròn trên không trung rồi rớt xuống thảm. Thảm bắt lửa, và những người đàn ông bắt đầu gào lên. Hiệp sĩ Emmon bỏ cây rìu, rút thanh kiếm của mình ra. Người đàn ông thứ hai tiến lên, Brienne nhảy sang một bên, hai lưỡi kiếm lại tiếp tục va chạm. Emmon Cuy lui lại và Brienne không tấn công tiếp, chỉ duy trì thủ thế dù cô vẫn kìm kẹp được hai người bọn họ. Dưới mặt đất, đầu Renly yếu ớt gật sang một bên, máu từ vết thương vẫn tiếp tục chảy ra.

Hiệp sĩ Robar vẫn để tay không, do dự và giờ đang để tay lên cán kiếm. “Robar, không, hãy nghe tôi,” Catelyn níu lấy tay hắn. “Ông đã nhận sai người, thủ phạm không phải là cô ấy. Xin hãy giúp tôi! Hãy nghe tôi, đó là Stannis.”

Cái tên đã tuột ra khỏi miệng bà mà không hề suy nghĩ logic, nhưng bà biết đó là sự thực. “Tôi xin thề, ngài hiểu tôi mà, chính Stannis đã giết ông ấy.”

Người hiệp sĩ áo choàng cầu vồng trẻ nhìn chằm chằm vào người phụ nữ khùng điên với khuôn mặt nhợt nhạt và ánh mắt sợ hãi. “Stannis? Bằng cách nào?”

“Tôi không biết. Phép thuật, ma thuật hắc ám, có một cái bóng, một cái bóng.” Giọng bà thật lạ và chính bà cũng cảm thấy mình đang điên cuồng, nhưng ngôn ngữ cứ thao thao bất tuyệt tuôn ra theo những tiếng vũ khí va chạm phía sau. “Một cái bóng với một thanh kiếm, ta thề, chính ta đã nhìn thấy nó. Ngài mù sao, cô ấy yêu nhà vua. Hãy giúp cô ấy!” Bà liếc nhìn phía sau, người cận vệ thứ hai đã gục xuống, thanh kiếm của hắn đã tuột khỏi tay. Bên ngoài vang lên những tiếng hét. Bà biết, đám đông giận dữ sẽ kéo đến dây trong chốc lát. “Robar, cô ấy vô tội. Tôi thề với ngài trên mộ của chồng và danh dự của dòng họ Stark!”

Câu nói này đã đả động đến hắn. “Tôi sẽ ngăn bọn họ.” Hiệp sĩ Robar nói. “Hãy đưa cô ấy đi đi.” Hắn quay lại bước ra ngoài. Ngọn lửa đã liếm lên tường và lan dần ra toàn bộ căn lều. Hiệp sĩ Emmon vẫn đang dồn ép Brienne, hắn đang mặc áo giáp và Brienne chỉ mặc áo vải. Nhưng hắn đã quên Catelyn cho đến khi bị thanh sắt lò sưởi đập vào sau gáy. Nhờ chiếc mũ bảo vệ mà đầu hắn không bị nguy hiểm nhưng sức nặng của cú đánh cũng khiến hắn khuỵu xuống. “Brienne, theo tôi,” Catelyn ra lệnh. Cô gái rất nhanh chóng nhìn thấy được cơ hội, tay nâng kiếm chém đứt một mảng lụa xanh lấy đường ra. Bọn họ bước ra ngoài và lẫn trong bóng tối. Những tiếng động lớn từ phía bên kia lều. “Lối này,” Catelyn gấp gáp, “và chậm thôi, chúng ta không được chạy, nếu không sẽ khiến họ nghi ngờ. Hãy đi bộ như không có gì xảy ra.”

Brienne cài thanh kiếm vào thắt lưng và lặng lẽ theo sau Catelyn. Không khí trong đêm ẩm ướt vì mưa. Phía sau họ, lều của đức vua đang bốc cháy, ngọn lửa sáng rọi trong đêm tối. Không ai ngăn cản bọn họ. Đám quân rầm rập chạy qua, la cháy, giết người và phù thủy. Những người khác tụ tập thành từng nhóm nhỏ thì thầm bàn tán. Vài người lên tiếng cầu nguyện và một người hầu trẻ thậm chí còn công khai quỳ xuống.

Đội quân của Renly chưa đánh đã tan rã vì tin đồn truyền miệng. Ngọn lửa cháy trong đêm giờ đã dần tàn lụi, và ánh mặt trời bắt đầu tỏa ánh sáng xuống Storm’s End, tòa lâu đài như người khổng lồ đá thức dậy trong ánh sáng nhợt nhạt tỏa khắp cánh đồng, sương mù nhè nhẹ lan theo gió. Những con ma buổi sáng, bà đã từng nghe vú già kể về chúng, những linh hồn quay về mộ. Và Renly giờ là một trong số chúng, đã rời thế gian giống như Robert, và Ned yêu quý của bà.

“Tôi chưa bao giờ ôm ông ấy ngoại trừ lúc ông ấy chết,” Brienne lặng lẽ nói khi họ đi qua đám đông hỗn loạn mỗi lúc một đông. Giọng cô nghe như thể sẽ vỡ òa bất cứ lúc nào. “Ông ấy đang cười vui vẻ, rồi bất ngờ máu ở khắp mọi nơi… phu nhân, tôi không hiểu. Bà có nhìn thấy, phải không…?”

“Ta nhìn thấy một cái bóng, mới đầu ta nghĩ đó là cái bóng của Renly, nhưng hóa ra đó là cái bóng của anh trai ông ấy.”

“Lãnh chúa Stannis?”

“Ta cảm thấy ông ta. Nghe có vẻ vô lý nhưng ta biết điều đó.”

Nhưng với Brienne nó đủ có lý rồi. “Tôi sẽ giết lão,” cô gái cao to có dung mạo tầm thường tuyên bố. “Thề với thanh kiếm của mình, tôi sẽ giết lão. Tôi thề. Tôi thề. Tôi thề.”

Hal Mollen và đội bảo vệ đang đợi bà bên những con ngựa. Hiệp sĩ Wendel Manderly đang lo lắng và cố gắng hỏi thăm chuyện đang xảy ra. “Phu nhân, cả doanh trại như đang phát điên,” ông kể khi nhìn thấy họ. “Lãnh chúa Renly, có phải…” dừng lại đột ngột, ông nhìn chằm chằm vào Brienne và vết máu loang lổ, “đã chết nhưng không phải chúng ta giết.”

“Cuộc chiến…” Hal Mollen bắt đầu.

“Sẽ không có cuộc chiến nào hết,” Catelyn trèo lên ngựa và đội cận vệ làm theo, hiệp sĩ Wendel đi bên trái, hiệp sĩ Perwyn Frey bên phải. “Brienne, chúng tôi mang theo số ngựa gấp đôi người, vì vậy hãy chọn một con và đi cùng chúng tôi.”

“Phu nhân, tôi có ngựa của mình, còn áo giáp của tôi…”

“Hãy bỏ chúng lại. Chúng ta phải rời khỏi đây trước khi họ nghĩ đến sự hiện diện của chúng ta. Cả hai chúng ta đều có mặt khi nhà vua chết. Và họ sẽ không quên việc đó.” Không nhiều lời, Brienne quay người làm theo những gì bà nói.

“Đi thôi,” Catelyn ra lệnh cho đội cận vệ khi tất cả họ đều lên ngựa. “Nếu có ai cố ngăn cản, hãy giết hắn tức thì.”

Buổi sáng như những ngón tay mảnh dẻ vuốt ve các cánh đồng, màu sắc đã quay trở lại với thế giới. Trong sương mù, những chiến binh màu xám cưỡi ngựa màu xám tay cầm những chiếc thương lạnh lùng lấp lóe, hàng vạn người đứng dưới thời tiết lạnh cóng, dưới những cờ hiệu đủ màu sắc đỏ, hồng, cam, cùng màu xanh và nâu đại diện cho sự giàu có, màu vàng đại diện cho sự cao sang quý phái. Tất cả sức mạnh của Storm’s End cùng Highgarden, sức mạnh đã từng là của Renly một giờ trước, giờ đã thuộc về Stannis, bà nhận ra, ngay cả khi họ không biết chuyện gì đã thực sự diễn ra. Nếu bọn họ không phục tùng Baratheon thì sẽ đi đâu? Stannis liệu có dành được tất cả chỉ nhờ một con quỷ.

Ta là một đức vua hợp pháp, ông ta đã tuyên bố như thế, cằm bạnh ra như thép và con trai bà cũng chỉ là kẻ phản quốc giống em trai ta ở đây. Ngày chết của hắn cũng sẽ tới.

Một cơn lạnh xuyên qua toàn thân bà.

Chương 107: Chương 34

CHƯƠNG 34: JON
Ngọn đồi bất chợt xuất hiện giữa khu rừng rậm đậm đặc cây, cô lập và đột ngột, cách đó hàng dặm có thể thấy gió đang rít gào nơi đỉnh đồi. Kỵ binh kể, những người dã nhân gọi nó là Nắm Tay của Tiên Dân (Fist of the First Men). Jon Snow nghĩ trông nó giống y một nắm tay bằng đá xuyên thẳng từ mặt đất qua rừng cao, lên thẳng những đám mây.
Hắn cưỡi ngựa đi ở nhóm đầu cùng với Đại nhân Mormont và

các quan chức cao cấp của Đội tuần đêm, để lại Ghost đi dưới các lùm cây. Kể từ khi bắt đầu leo núi, con sói vương đã ba lần chạy mất, hai lần trước nó miễn cưỡng quay lại theo tiếng huýt sáo của Jon. Đến lần thứ ba, ngài Tổng tư lệnh mất kiên nhẫn, kêu lên. “Cứ để nó đi đi, cậu bé. Ta muốn lên đến đỉnh đồi trước khi trời tối. Sau đó thì cậu đi tìm con sói.”
Đường đi lên dốc và gồ ghề, núi đá được bao quanh bởi một bức tường vòng tròn cao ngang ngực. Họ phải đi đường vòng về phía Tây một đoạn khá xa rồi tìm thấy một khoảng cách đủ lớn cho ngựa đi qua. “Thoren, chỗ này địa hình khá tốt,” Hùng Lão tuyên bố khi bọn họ cuối cùng cũng lên đến đỉnh, “khó tìm được nơi tốt hơn, chúng ta có thể cắm trại ở đây để đợi Halfhand.” Ngài Tổng Tư Lệnh xuống ngựa, hành động khiến con quạ đang đậu trên vai cảm thấy phiền, kêu quàng quạc than thở. Tiếng kêu của nó vang vọng trong không khí.
Phong cảnh nhìn từ trên đồi rất tốt, nhưng thứ hấp dẫn Jon lại là bức tường vòng quanh, những tảng đá xám được bao phủ bởi những cây địa y, rêu xanh nhẹ nhàng lay động trong gió. Người ta kể Nắm Đấm được những Tiên Dân xây dựng trong Kỷ Nguyên Bình Minh (Dawn Age).
“Một nơi cổ xưa nhưng vẫn còn kiên cố,” Thoren Smallwood nhận xét.
“Cổ.” Con quạ của Mormont hét lên như thể đang tranh cãi ầm ĩ trên đầu họ. “Cổ, cổ, cổ.”
“Yên lặng,” Mormont gầm lên với con chim. Hùng Lão vốn kiêu hãnh, không bao giờ thể hiện sự yếu đuối trước người khác, nhưng Jon không dễ bị lừa. Hắn có thể thấy rõ nét uể oải trong chuyển động của người lính già khi cố bắt kịp tốc độ của những người lính trẻ. “Nếu cần phải bố trí phòng thủ thì ở độ cao này rất dễ dàng,” Thoren phát biểu ý kiến khi buộc con ngựa vào thành đá, chiếc áo choàng tung bay trong gió.
“Không sai, nơi này được rồi,” Hùng Lão nâng bàn tay lên để đón gió và con quạ đậu ngay trên cẳng tay, bàn chân bám chặt vào găng tay màu đen.
“Đại nhân, giải quyết vấn đề nước uống thế nào?” Jon hỏi.
“Chúng ta chẳng phải vừa đi qua một con lạch dưới chân đồi sao.”
“Vậy phải trèo một đoạn dài để lấy nước,” Jon chỉ ra, “và con lạch đó nằm ngoài vòng thành đá.”
Thoren nói: “Thế nào? Lười không muốn leo sao, cậu bé?”
Đại nhân Mormont tiếp lời: “Rõ ràng chúng ta không thể tìm thấy một nơi nào vững chắc được như nơi này. Vì vậy chúng ta hãy đi lấy nước và bảo đảm mọi thứ được cung cấp đủ.” Jon biết có nói nữa cũng vô dụng, vì lệnh đã được đưa ra và các huynh đệ của Đội Tuần Đêm đã bắt đầu cắm trại phía sau vòng tròn đá do những Tiên Dân xây dựng. Những chiếc lều đen nổi lên như những cây nấm mọc lên sau cơn mưa, chăn và giường cuộn đã được trải lên trên đất trống. Những người phục vụ đưa những con ngựa xếp thành hàng dài cho ăn và uống nước. Những tiều phu xách rìu vào rừng chặt cây để chuẩn bị nhóm lửa trong đêm. Một nhóm thợ thủ công dọn sạch mặt đất, đào thành từng lỗ, cho những bụi cây và đóng cọc gỗ. “Trước khi trời tối ta phải làm xong hào chiến,” Hùng Lão/ Old Bear ra lệnh.
Khi đã thiết lập xong trại chỉ huy dành cho ngài Tổng Tư Lệnh và kiểm tra những con ngựa, Jon Snow xuống đồi tìm Ghost. Con sói vương yên lặng đến tức thì khi nghe thấy lời hắn gọi. Trong khoảnh khắc trước Jon hoàn toàn một mình độc hành trong rừng, huýt sáo và hét to, xung quanh chỉ có lá rụng, rồi ngay sau đó con sói vương trắng khổng lồ xuất hiện bên cạnh hắn, nhợt nhạt như sương mù buổi sáng.
Nhưng khi hai người đến vòng tròn đá, Ghosh từ chối di chuyển tiếp. Nó cẩn thận chạy lên ngửi mùi giữa khe đá, sau đó trở lại như thể không thích mùi vừa ngửi. Jon cố gắng lôi nó vào vòng tròn đá nhưng không dễ dàng chút nào. Con sói nặng gần ngang hắn và rõ ràng khỏe hơn. “Ghost, chuyện gì xảy ra với mày thế?” Rõ ràng đó vốn không phải thái độ thường khi của nó. Cuối cùng Jon đành phải bỏ cuộc. “Tùy mày thôi,” hắn nói với con sói. “Vậy đi săn đi.” Đôi mắt đỏ của con sói nhìn hắn chằm chằm khi hắn bước qua những những tảng đá rêu xanh vào trong vòng tròn.
Họ có thể an toàn ở đây. Ngọn đồi đưa đến tầm quan sát thuận lợi cả hướng Bắc và Tây, chỉ có phía Đông hơi bị ngăn cản. Tuy nhiên hoàng hôn đã buông xuống, khu rừng trở nên tối tăm, và cảm giác của Jon mỗi lúc trở nên khó chịu. Hắn tự nhủ đây là khu rừng ma. Có lẽ ở đây có những con ma thật, những linh hồn của Tiên Dân (First Men). Dù sao thì đây đã từng là lãnh địa của họ.

“Được rồi, đừng hành động như thằng bé nữa,” hắn tự nhủ, bò lên những tảng đá xếp lên nhau, Jon nhìn về phía mặt trời đang lặn. Hắn có thể thấy ánh sáng nhấp nháy trên dòng sông như những đốm lửa tí tách của lò rèn chảy trên bề mặt dòng sông Milkwater (Thiên Hà) về phía Nam. Thượng nguồn là nơi mặt đất gồ ghề hơn, rừng cây rậm rạp bị thay thế bởi những ngọn đồi trọc với hàng loạt những tảng đá trơ trên cao, mở rộng về phía Bắc và phía Tây. Nơi chân trời, những ngọn núi như những cái bóng khổng lồ, từng hàng rồi từng hàng thẳng đến khi thành những khoảng cách xanh xám mơ hồ. Những đỉnh núi lởm chởm đầy tuyết trắng trông thật lạnh lẽo, cô đơn và hoang vắng dù nhìn từ nơi thật xa xôi.
Thu hẹp tầm nhìn, xung quanh nơi này toàn cây. Hướng về phía Nam và phía Đông, rừng cây dường như bất tận, một khoảng không rộng lớn được bao phủ toàn màu xanh, điểm xuyết đây đó là màu đỏ những cây gỗ như cây thông hoặc trạm gác, hoặc rải vàng của những cây tán rộng bắt đầu chuyển mùa. Mỗi khi gió thổi, hắn có thể nghe thấy những cành cây già rên rỉ thở dài với đám hậu bối. Hàng ngàn cây cùng thì thầm, và trong phút chốc cánh rừng già trông như mặt biển xanh thẳm bắt đầu nổi bão, nặng nề và không thể dự báo trước.
Hắn tự hỏi sao Ghost lại muốn ở một mình dưới này chứ. Dưới “mặt biển” mênh mông, bất cứ thứ gì di chuyển, thậm chí lao vào pháo đài cũng không có cách nào nhìn rõ. Bất cứ thứ gì cũng thế. Nếu có gì bất trắc thì không biết thế nào phòng bị? Hắn đứng đó một thời gian dài, cho đến khi mặt trời khuất hẳn sau dãy núi lởm chởm và bóng tối bao quanh khu rừng.
“Jon?” Samwell Tarly gọi to. “Là cậu phải không? Cậu không sao chứ?”
“Tôi ổn,” Jon nhìn xuống. “Còn cậu hôm nay thế nào?”
“Tốt. Tôi ổn. Thực sự.”
Jon không có ý định chia sẻ sự bất an trong lòng với anh bạn, không thể khi mà Samwell Tarly mới bắt đầu thấy can đảm.
Ng.uồ.n .từ. s.it.e .Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. “Hùng Lão/ Old Bear định đợi Qhorin Halfhand và đội quân đến từ Shadow Tower ở đây.”
“Có vẻ nơi đây được phòng thủ tốt,” Sam nói. “Một pháo đài tròn của Tiên Dân. Cậu nghĩ nơi đây đã từng là chiến trường chưa?”
“Chắc chắn. Cậu tốt hơn là chuẩn bị sẵn một con quạ đi. Mormont sẽ muốn gửi thư bây giờ đấy.”
“Tôi ước sao thả được hết bọn chúng. Chúng ghét bị nhốt trong lồng.”
“Nếu cậu bay được thì cậu cũng sẽ thế thôi.”
“Nếu tôi bay được thì tôi bay ngay về Lâu Đài Đen/ Castle Black để ăn bánh thịt,” Sam trả lời.
Jon dùng bàn tay bị cháy sém vỗ nhẹ lên vai hắn. Họ cùng nhau đi bộ quay trở lại trại. Những bếp nấu ăn đã đỏ lửa xung quanh. Trên đỉnh đầu, những ngôi sao đang mọc. Chiếc đuôi dài đỏ rực của Ngọn Đuốc Mormont vẫn cháy rực, sáng như ánh trăng. Còn chưa nhìn thấy mấy con quạ, Jon đã nghe thấy tiếng. Vài con đang gọi tên nó. Những con quạ không biết xấu hổ khi trở nên ồn ào. Nhưng nói không chừng chúng cũng cảm nhận được. “Tôi tốt nhất nên đi gặp Hùng Lão,” hắn nói. “Nếu không ăn no ông ấy cũng trở nên ầm ĩ.”
Hắn tìm thấy Mormont đang nói chuyện với Thoren Smallwood và sáu thủ lĩnh khác. “Cậu đây rồi,” ông già hơi gắt gỏng, “hãy mang cho chúng ra rượu nóng. Đêm nay hơi lạnh.”
“Vâng, thưa đại nhân,” Jon nhóm lửa, tìm người có trách nhiệm lấy rượu vang đỏ yêu thích của Mormont từ kho và đổ vào ấm đun, sau đó hắn đặt ấm đun lên bếp lửa, trong khi chạy đi thu thập tài liệu ông bày ra. Hùng Lão rất thích rượu có vị cay nồng nên hắn chú ý thêm quế, thảo quả và mật ong vào theo tỷ lệ cụ thể, không nhiều hơn cũng không ít hơn, bổ sung thêm nho khô, cái loại hạt và quả khô nhưng không có chanh, bởi vì đây là loại quả hiếm được mang từ phía Nam xa xôi, rất ít và chỉ cho vào bia trong bữa sáng. Đồ uống này giúp cơ thể ấm lên, tổng tư lệnh đại nhân quả quyết thế, nhưng không được phép đun sôi rượu. Vì vậy Jon cẩn thận chú ý đến ấm đun.
Trong khi làm việc, hắn nghe thấy âm thanh nói chuyện từ trong lều truyền ra. Jarrman Buckwell nói: “Con đường dễ đi nhất lên Hàm Sương Tuyết (Frostfang) là theo dòng sông Milkwater lên thượng nguồn. Nhưng nếu đi đường đó thì Rayder sẽ phát hiện ra đoàn. Chắc như bắp luôn.”

“Thang của Người Khổng Lồ/ Giant’s Stair sẽ lo việc đó,” Hiệp sĩ Mallador Locke trả lời, “hoặc Skirling Pass nếu khả dĩ.” Rượu bắt đầu sủi. Jon nhấc ấm đun khỏi bếp, đổ ra tám cốc và mang vào trong lều. Hùng Lão đang nhìn chằm chằm vào bản đồ thô mà Sam đã vẽ vào cái đêm ở Lâu đài của Craster. Ông lấy một ly từ khay Jon đang mang, uống một ngụm và gật đầu hài lòng. Con quạ của ông vẫn đang đậu trên vai. “Ngô,” nó nói, “ngô, ngô.”
Hiệp sĩ Ottyn Wythers lấy một ly rượu. “Tôi không đồng ý đi vào dãy núi,” ông ta nói với giọng mệt mỏi rã rời. “Frostfangs lạnh thấu xương ngay cả trong mùa hè nữa là bây giờ… nếu chúng ta chẳng may dính vào cơn bão…”
“Tôi không định mạo hiểm vào Frostfangs trừ khi bị dồn vào đường cùng,” Mormont nói. “Đám người dã nhân (Wildlings) cũng không thể sống dựa vào tuyết và đá như chúng ta. Bọn chúng bất kể tập hợp được bao nhiêu người cũng sẽ sớm rời khỏi rời khỏi núi và con đường duy nhất là xuôi dòng Milkwater. Nếu vậy, chỗ chúng ta trụ ở đây chính là điểm thắt quan trọng. Chúng không hy vọng chúng ta sẽ bỏ qua.”
“Tôi sợ rằng bọn chúng cũng không có ý định bỏ qua. Bọn chúng có hàng ngàn người trong khi chúng ta tối đa chỉ có ba trăm người ngay cả khi Halfhand nhập bọn,” Hiệp sĩ Mallador cầm lấy một cốc rượu từ Jon.
“Nếu cuộc chiến phát sinh thì chúng ta không thể tìm thấy địa hình nào tốt hơn ở đây,” Mormont tuyên bố. “Chúng ta sẽ tăng cường phòng thủ. Đinh và cạm bẫy, trên sườn núi có nhiều củ ấu, những chỗ nứt cần phải được tu bổ lại. Jarman, tôi muốn nhờ đến đôi mắt sắc bén của anh để canh gác, đưa người của anh đóng trại ở vòng ngoài và dọc bờ sông để quan sát và cảnh báo bất kỳ động tĩnh nào nếu có. Bọn họ sẽ ẩn nấp trên cây và mỗi khi thấy một đối tượng nào không xác định thì phải báo ngay lập tức. Chúng ta cũng sẽ lo trữ nước. Hãy đào một cái ao nhỏ ở đây, điều này sẽ khiến mọi người không hài lòng khi phải lao động cực nhọc nhưng thứ này có thể quyết định sống chết sau này.”
“Đội kỵ binh của tôi…” Thoren Smallwood mở lời.
“Đội kỵ binh của cậu sẽ hạn chế tuần tra bên bờ sông cho đến khi Halfhand gia nhập. Sau đó chúng ta sẽ xem xét quyết định tiếp. Tôi không muốn mất thêm bất kỳ người lính nào nữa.”
“Mance Rayder có thể đang tập hợp quân đội bên ngoài mà chúng ta không biết,” Smallwood than thở.
“Chúng ta biết đám dã nhân tập hợp ở đâu,” Mormont phản bác. “Chúng ta có thông tin đó từ Craster. Ta không thích người đàn ông đó nhưng ta không nghĩ hắn nói dối.”
“Đúng vậy,” Smallwood ủ rũ rời đi. Những người khác uống nốt cốc rượu và đi theo ra ngoài.
“Đại nhân, ngài dùng bữa tối chứ?” Jon hỏi.
“Ngô” con quạ gào lên. Mormont trầm lặng một lúc rồi hỏi: “Con sói của cậu hôm nay có săn được gì không?”
“Nó không chịu quay về.”
“Chúng ta cần thịt tươi,” Mormont cho tay vào túi bốc một nắm hạt ngô cho con quạ. “Cậu cũng thấy là ta không nên hạn chế kỵ sĩ hoạt động?”
“Đại nhân, tôi không có quyền bàn chuyện đó.”
“Cậu được phép nói nếu ta hỏi.”

“Nếu kỵ sĩ phải ở lại để theo dõi Fist thì tôi không thấy có hy vọng gì vào việc họ sẽ tìm thấy chú tôi,” Jon thừa nhận.
“Họ không thể,” con quạ mổ những hạt ngô trên tay Hùng Lão (Old Bear). “Không đề cập đến hai trăm người, kể cả có mười ngàn người thì vùng đất này cũng quá rộng.” Hạt ngô đã hết, Mormont nắm tay lại.
“Ngài sẽ không từ bỏ cuộc tìm kiếm chứ?”
“Học sĩ Aemon nghĩ cậu rất thông minh,” Mormont đem con quạ đậu lại trên vai. Con chim nghiêng đầu, ánh mắt lấp lánh.
Câu trả lời khiến Jon lâm vào ngõ cụt. “Liệu có đúng không nếu… tôi có cảm giác một người tìm hai trăm người dễ hơn là hai trăm người tìm một người.”
Con quạ hơi la hét, nhưng qua bộ râu xám, Hùng Lão (Old Bear) mỉm cười. “Aemon vẫn theo dõi được đoàn người và ngựa này dù chúng ta đã rời khỏi đường mòn lưu. Trên ngọn đồi này, ngọn lửa của chúng ta có thể được nhìn thấy ở tầm xa nhất, đến tận chân đồi Frostfangs. Ta tin chắc nếu Ben Stark còn sống và tự do, hắn sẽ tìm đến với chúng ta.”
“Đúng vậy,” Jon nói, “nhưng… nếu...”
“… hắn đã chết?” Mormont hỏi, âm thanh vẫn nhẹ nhàng như cũ. Jon cố gắng gật đầu.
“Chết,” con quạ nói, “Chết. Chết.”
“Dù thế nào hắn cũng có thể quay lại với chúng ta,” Hùng Lão nói, “như Othor và Jafer Flowers. Ta tin tưởng điều đó cũng như cậu vậy, Jon, nhưng chúng ta cũng phải tính đến khả năng xấu.”
“Chết,” con quạ vẫn đang gào lên, đôi cánh run run. Giọng nói mỗi lúc the thé to hơn. “Chết,” Mormont vuốt bộ lông đen của con chim và bất ngờ bị mổ lại. “Ta sẽ ăn súp tối nay rồi nghỉ ngơi, điều đó sẽ khiến ta khỏe hơn. Hãy đánh thức ta ngay khi tia nắng đầu tiên bắt đầu.”
“Đại nhân ngủ ngon,” Jon uống cạn cốc rượu và bước ra ngoài. Hắn nghe thấy tiếng cười đằng xa, giống như âm thanh buồn của một điệu sáo. Đống lửa trung tâm trại đã được đốt lên và hắn có thể ngửi thấy mùi thức ăn. Hùng Lão có lẽ không đói nhưng Jon thì có. Vì vậy hắn bước về phía lửa trại.
Dywen đang cầm cái muỗng trong tay. “Tôi biết về khu rừng này hơn bất cứ ai ở đây, và nói cho cậu biết, tôi không muốn cưỡi ngựa một mình đi trong đó. Cậu có thể ngửi thấy mùi đó không?”
Grenn mở con mắt to nhìn hắn chằm chằm nhưng Dolorous Edd nói: “Tất cả mùi tôi ngửi thấy là bãi cứt của hàng trăm con ngựa. Và cả nồi thức ăn này. Mà nói thật, tôi chẳng thấy chúng có mùi khác nhau gì.”
“Tôi thấy cậu nên nói ít đi vài câu thì hơn,” Hake mài dao găm, lẩm bẩm. Hắn đổ thức ăn vào bát và đưa cho Jon.
Thức ăn có mùi lúa mạch, cà rốt và hành tây, đâu đó cũng có chút thịt bò muối nấu chín.
“Dywen, cậu ngửi thấy mùi gì?” Grenn hỏi.
Người đi rừng bỏ cái muôi xuống, tháo hàm răng giả. Khuôn mặt đầy những nếp nhăn và gân như những rễ cây già. “Tôi nghĩ đó là… mùi lạnh.”
“Cái đầu ông cũng làm bằng gỗ như răng,” Hake châm biếm. “Không có mùi nào có vị lạnh cả.”
Có đó, Jon nhớ tới đêm ở dãy phòng ngủ của Tổng tư lệnh đại nhân. Lúc đó nó có mùi chết chóc. Bất chợt hắn không còn cảm thấy đói, vì vậy hắn đưa bát thức ăn cho Grenn, người có vẻ như cần thêm một bát thức ăn để chống lại cái lạnh của đêm.

Cơn gió thổi mạnh khi hắn rời đi. Vào buổi sáng hôm sau, sương bao phủ mặt đất, cả khu trại chìm trong băng giá. Rượu gừng còn sót lại chút ít dưới đáy nồi. Jon cời ngọn lửa lên đun ấm rượu. Hắn nắm chặt những ngón tay chờ đợi, rồi duỗi rồi nắm cho đến khi cảm thấy tay hoạt động dễ dàng hơn. Toán canh đầu tiên đã bắt đầu tuần quanh khu trại. Những ngọn đuốc thắp sáng cắm dọc quanh khu tường thành. Đêm nay không có trăng nhưng có hàng ngàn ngôi sao trên bầu trời.
Trong bóng tối vang lên một âm thanh, mờ mịt và xa xôi, nhưng chắc chắn không thể nghi ngờ: tiếng sói tru. Âm thanh lên bổng xuống trầm giống như một bài hát cô đơn và lạnh lẽo. Nó khiến cho lông tóc con người ta dựng ngược. Qua đống lửa, một đôi mắt đỏ rực đang chằm chằm nhìn hắn từ bóng tối. Ánh lửa màu đỏ khiến đôi mắt như viên đá quý nhấp nháy.
“Ghost,” Jon thì thầm ngạc nhiên. “Vậy là cuối cùng cũng đi vào, hử?” con sói trắng thường đi ăn vào đêm, hắn vốn tưởng sẽ nhìn thấy nó lúc hừng đông. “Cuộc đi săn không tốt hả?” Hắn hỏi. “Lại đây với tao nào, Ghost.”
Con sói vương đi vòng qua đống lửa, hít hít Jon, khịt khịt đánh hơi gió, không hề yên lặng. Xem ra nó vừa có một bữa ăn thịnh soạn. Mỗi khi tử thần tiến đến, Ghost sẽ biết và đánh thức mình, cảnh báo mình.
Cảnh báo, hắn đứng lên. “Có gì ngoài đó thế? Ghost, mày ngửi thấy gì phải không?” Dywen đã nói ông ngửi thấy mùi lạnh.
Con sói vương nhảy lên, dừng lại và quay lại nhìn hắn. Nó muốn mình đi theo. Kéo mũ chiếc áo choàng lên đầu, Jon bước ra khỏi lều, để lại bếp lửa trại ấm áp, đi qua đàn ngựa được buộc chỉnh tề. Một trong những con ngựa hí lên lo lắng khi Ghost bước qua, Jon dừng lại, chạm vào mũi nó và nói lời an ủi. Hắn có thể nghe thấy thấy tiếng gió rít thổi qua các khe hở của đống đá khi bọn họ tiến gần đến bức tường thành Một âm thanh gào lên thách thức, Jon bước vào khoảng ánh sáng phát ra từ một ngọn đuốc. “Tôi đi lấy nước cho Tổng tư lệnh đại nhân.”
“Vậy đi đi,” lính gác nói. “nhưng nhanh lên đấy.” Viên lính gác đang nấp dưới chiếc áo choàng đen, chụp chiếc mũ lên đầu cho khỏi gió, khuôn mặt biến mất như thể hắn đang úp cái thùng lên đầu.
Jon bước qua thanh gỗ bắc ngang hai cọc nhọn còn Ghost thì chui qua. Một cây đuốc gắn lên tường đang cháy rực, nghiêng ngả theo mỗi cơn gió thổi qua giống như lá cờ hiệu vàng nhạt. Hắn cầm lấy đuốc khi bước vào giữa bức tường đá. Ghost chạy như bay xuống đồi. Jon chậm rãi theo sau, ngọn đuốc soi sáng con đường phía trước, âm thanh của khu trại dần dần ở phía sau. Đêm tối, sườn núi dốc, đường nhấp nhô, chỉ cần hơi sơ sẩy sẽ ngã vỡ đầu gối… hoặc gãy cổ. Mình đang làm gì thế này? Hắn vừa đi vừa tự hỏi.
Rừng ngay bên dưới, như các chiến binh được trang bị áo giáp là những lớp lá và vỏ dày, đứng yên lặng lẽ chờ tấn công ngọn đồi như vũ bão. Chúng trông có vẻ đen tối… chỉ khi ánh sáng ngọn đuốc chiếu đến thì Jon mới thấy được sắc xanh của lá. Mơ hồ hắn nghe thấy âm thanh của nước chảy giữa những tảng đá. Ghost biến mất dưới bụi cây, Jon cố gắng theo kịp nó, bên tai lắng nghe tiếng động từ những con suối nhỏ vẫy gọi, cùng với tiếng thở dài của lá cây. Những cành cây níu kéo chiếc cáo choàng của hắn, trong khi những tán lá dày che lấp toàn bộ ánh sao.
Hắn thấy Ghost chạy đến bên bờ suối. “Ghost,” hắn gọi, “đến chỗ tao, ngay.” Con sói vương ngẩng đầu lên, đôi mắt đỏ rực lấp lánh trông thật khủng bố, dòng nước trong vắt chảy dưới móng vuốt nó trông như dãi. Trong phút chốc, Ghost trông thật khủng bố và đáng sợ. Và rồi nó bỏ chạy, đi qua Jon, xuyên qua rừng cây. “Ghost, đừng, dừng lại” hắn hét lên, nhưng con sói vương không thèm nghe. Thân hình tái nhợt ẩn trong bóng tối và Jon chỉ còn hai lựa chọn - leo lên đồi trở về khu trại hoặc một mình tiếp tục đi tiếp.
Hắn quyết định đi tiếp, giận dữ, hạ ngọn đuốc thấp hơn để nhìn rõ các tảng đá đang đe dọa khiến hắn ngã bất kỳ lúc nào, các rễ cây khổng lồ có vẻ muốn vặn chân hắn, hố ở khắp nơi đe dọa nuốt chửng người. Hắn luôn miệng gọi Ghost nhưng gió đêm thổi qua những những cây rừng và nuốt toàn bộ âm thanh. Thật điên rồi, hắn nghĩ khi càng ngày càng vào sâu trong rừng. Hắn định quay lại thì thấy một bóng trắng loáng cái ở phía bên phải, chạy lại về phía đồi. Hắn vội vàng chạy theo, miệng liên tục chửi rủa.
Chạy được khoảng một phần tư đoạn đường vòng lên đỉnh Fist thì hắn bắt kịp con sói rồi nó lại biến mất lần nữa. Cuối cùng hắn dừng lại để thở, đứng bên bụi cây, gai và những tảng đá lởm chởm nơi chân đồi. Ngoài vùng sáng của ngọn đuốc, đêm tối đen như mực.
Bất ngờ một tiếng động nhỏ vang lên khiến Jon chú ý quay người lại, tiến về phía tiếng Đông, hắn cẩn thận bước đi giữa những tảng đá và bụi cây. Phía sau một cái cây đổ, hắn trông thấy Ghost. Con sói vương đang điên cuồng cào đất.
“Mày tìm gì thế?” Jon hạ thấp cây đuốc, thấy xung quanh đó là lớp đất mềm. Hắn nghĩ tới một cái mộ, nhưng là của ai?
Quỳ xuống, hắn cắm ngọn đuốc xuống đất bên cạnh. Đây là loại đất cát mềm, Jon nắm một vốc đất rồi thả theo các kẽ tay, nơi đây không có đá hay rễ cây. Bất kể thứ gì được chôn ở đây cũng không chôn quá sâu. Đào xuống hai feet, những ngón tay của hắn đã sờ thấy quần áo. Hắn nghĩ đến một thi thể, sợ rằng là một xác chết, nhưng còn cảm thấy một cái gì khác nữa. Hắn đẩy lớp vải ra và tìm thấy một thứ nhỏ bé, cứng cứng bên dưới, thứ đó không bị bẻ cong. Không mùi, không có dấu hiệu của côn trùng. Ghost lùi lại, ngồi xuống và nhìn chằm chằm.
Jon phủi lớp đất ra và nhìn thấy một gói tròn có đường kính gần hai feet, hắn đưa rút thanh thủy trủ ở thắt lưng ra và cắt lớp dây bên ngoài, lớp vải tràn ra cùng với tiếng kêu leng keng. Kho báu, hắn nghĩ, nhưng hình dạng bên trong không phải đồng tiền, và âm thanh cũng không phải là tiếng kim loại.
Một bó dây khác cuốn chặt. Jon rút dao găm ra cắt một góc vải và xé ra. Cái kiện xoay tròn và rồi thứ được cuộn trong đó rơi xuống đất, lóe ra màu đen. Hắn nhìn thấy mười hai con dao, cột cây giáo lớn hành lá, vô số các mũi tên. Jon nhặt một thanh trủy thủ, nhẹ như một chiếc lông và sắc lạnh. Ánh sáng từ ngọn nến chiếu lên từng góc cạnh của thanh trủy thủ, một đường vàng mỏng mô tả lưỡi dao sắc nhỏ. Pha lê rồng. Các học sĩ gọi nó đá vò Chai. Lẽ nào Ghost đã khám phá ra mộ cổ của Những đứa con của rừng, vốn đã chôn ở đây hàng ngàn năm? Đỉnh Fist của Tiên dân là một địa danh cổ, tuy nhiên…
Bên dưới pha lê rồng là một tù và/kèn lệnh, làm từ một chiếc sừng của một con bò rừng và được dát đồng. Jon đổ hết đất bẩn bên trong nó và một loạt mũi tên rơi ra. Hắn cứ để chúng rơi và tùy ý cầm một góc vải bao đống vũ khí này, sờ soạng ngắm nghía. Vải tốt, dày, ẩm ướt nhưng chưa mục. Thứ này mới được chôn ở đây. Và có màu tối. Hắn đưa nó đến gần ngọn đuốc. Không phải màu tối, là màu đen.
Ngay trước khi Jon đứng lên và định cất lời thì hắn bất chợt hiểu ra hắn đang có cái gì trong tay: Chiếc áo choàng của một người anh em trong Đội Tuần Đêm.



trước sau
Bình luận văn minh lịch sự là động lực cho tác giả. Nếu gặp chương bị lỗi hãy "Báo lỗi chương" để BQT xử lý!
Sử dụng gói vip bạn sẽ được phép tắt hết quảng cáo khi đọc truyện