: Là gió động hay là tình động
"Nghiêu Khanh, có thư của quân chi viện!".
Truyện Hài Hước
Bên trong thành Tượng Châu lòng dân hoảng hốt, bá tánh bị vây vội vàng đóng cửa trốn kỹ trong nhà, cầu cho khốn cảnh sớm ngày được giải quyết.
Đô tuần kiểm sử ở trong thành hỏi: "Thành đã bị vây bốn phía, thư này làm sao mà tới được?"
"Núi phía Nam phản quân lơi lỏng, là một đội kỵ binh mang thư vào."
Tào Khắc Minh nhận lấy thư.
"Tào tướng quân, Tượng Châu được bao quanh bởi sông nước, phản quân vây mà không thể đánh.
Kẻ cướp xuất thân quân đội, hiểu được binh pháp, hiện không rõ binh lực trong thành Tượng Châu nên mới không dám tuỳ tiện tiến công.
Cấm quân bình loạn đang trên đường tới, nhưng sợ không thể kịp thời chi viện.
Tượng Châu bị vây, còn phải kéo dài, cần kế chu toàn.
Trong thành có Khê đồng nhân, to con và cường tráng, chiêu mộ làm binh, thành lập một đội thuỷ quân trong thành, nếu địch có ý lui binh, lập tức hội hợp."
Đọc xong liền thiêu huỷ bức thư, hỏi: "Thư này đưa đến không sợ rơi vào tay giặc sao? Nếu vậy Tượng Châu đã không thể cứu rồi."
"Đây là do các kỵ binh truyền miệng đến, hạ quan sai người ghi lại mới đưa cho tướng quân."
"Hiện giờ Tượng Châu không có quân coi giữ, trong thành lại có mấy vạn dân, trước sau gì cũng chết, không bằng liều một lần!" Tri châu nhớ lại mà sợ nói: "Cũng may là hữu kinh vô hiểm!"
"Kế này là do ai đưa tới?"
"Bình loạn phó sử, phò mã đương triều, Lý Nhược Quân."
Tào Khắc Minh nhíu mày, suy tư trong chốc lát liền bước ra khỏi lều căn dặn phó tướng: "Ngươi đi chiêu mộ 3000 Khê đồng nhân."
"Khê đồng nhân?" Phó tướng ngạc nhiên: "Khê đồng nhân tính tình hoang dã, ngài lại từng giết thủ lĩnh bọn họ trước mặt bá tánh, sao có thể..."
"Bọn họ đã an cư lạc nghiệp ở Tượng Châu này mấy chục năm, hiện giờ thành sắp bị phá, sao còn quan tâm nội chiến? Tuyên bố ra ngoài, nếu bảo vệ được thành, quân lương tăng gấp đôi!"
"Vâng!"
"Còn phải làm phiền Tri châu giúp ta chiêu mộ tráng đinh* và nam nhân lực lưỡng trong thành."
(*Tráng đinh: thanh niên đến tuổi thành niên, khỏe mạnh, có thể tham gia binh dịch, lao dịch thời xưa.)
Sau nửa ngày, Tào Khắc Minh mang theo các tráng đinh lên núi đốn củi làm thành một chiếc thuyền lớn dừng bên bờ sông bị bao vây, cứ cách vài bước lại cắm một lá cờ, lại chế tạo bè gỗ thả trôi trên sông, phái các binh lính vừa chiêu mộ được lên bè phòng ngự.
Từ xa nhìn lại, giống như đang tập trung hoả lực trên sông, mặt nước toàn sương mù, không thấy rõ bên trong có bao nhiêu người, chỉ cảm thấy trong phạm vi vài dặm đều có quân canh giữ.
Vùng Quảng Nam sông nước chằng chịt, các doanh trại thường được dựng ven sông.
Trong một doanh trại ven sông mặt Bắc Quảng Nam, một mật lệnh được truyền vào lều lớn.
Dưới ánh nến mờ ảo trong lều, một người che mặt đứng khoanh tay, cất giọng ra lệnh: "Tượng Châu bị vây, Lưỡng gian phòng át sử Hoàng Chúng Doanh tức tốc chi viện!"
Hoàng Chúng Doanh chắp tay hành lễ lại buông xuống, nói: "Quân lính ở đây của chúng ta cùng lắm chỉ hơn một ngàn người, cấm quân từ kinh thành còn chưa tới, đi không phải sẽ chết sao..."
"Ngươi sợ?"
"Thần không dám!" Hoàng Chúng Doanh khom người nói: "Lần này chi viện Tượng Châu, chúng ta cần phải..."
"Đây là lệnh của điện hạ, ngươi nghe theo là được, chớ có hỏi nhiều."
"Vâng."
Lưỡng giang phòng át sử Hoàng Chúng Doanh lập tức điều động 1.500 binh sĩ, suốt đêm lao đến Tượng Châu.
Cùng lúc đó triều đình lại hạ lệnh, mệnh cho Tri châu Hoàn Châu Trương Húc làm Khánh đông tây lộ trợ giúp Tào Lợi Dụng bình loạn phản quân.
Cuối tháng tám, phản quân bắt đầu tấn công Tượng Châu, quân sĩ và dân binh trong thành liều chết chống cự.
Tháng chín, Tào Lợi Dụng mang theo đại quân đến Quảng Nam.
Phản quân ở Tượng Châu không thể công thành, lòng quân dao động.
Trong lều lớn của phản quân, Trần Tiến khoác hoàng bào nôn nóng vạn phần, triệu kiến các tướng quân đến bàn bạc đối sách: "Chúng ta tấn công Tượng Châu bấy lâu nay vẫn không được, mà cấm quân của cẩu hoàng đế đã đến rồi, trước mắt nên làm thế nào cho phải?"
"Nếu không thể bắt lấy Tượng Châu, Ung Châu cũng sẽ vô vọng, không chiếm được Quảng Nam, muốn đặt chân chỉ là vọng tưởng!"
Quân sư đi đến chỗ sa bàn: "Là ta đã đánh giá thấp Tào Khắc Minh.
Hắn từng làm Tri châu Ung Châu, đối với Khê đồng nhân cũng có uy vọng, nhưng tấn công nhiều ngày qua thần cũng đã thăm dò được quân tình Tượng Châu." Hắn đem lá cờ Tượng Châu đặt bên ngoài thành: "Ngoại thành tạo thế, rõ ràng quân coi giữ bên trong đã không đủ, Tượng Châu chỉ là nỏ mạnh hết đà."
"Nhưng cấm quân của Hoàng đế tới rồi, chúng ta còn chưa bắt được Quảng Nam! Binh lực cũng có hạn."
Quân sư chắp tay khom người nói: "Thần từng làm quan trong Xu Mật Viện, cái danh cấm quân này tuy dễ nghe, nhưng thực tế chiến lực chỉ bình thường.
Từ khi Thái Tông qua đời, người Tống sợ tay sợ chân, Triệu Hằng càng là ngu ngốc vô đạo, sủng tín nịnh thần."
"Ý quân sư là cấm quân không đáng sợ?"
"Đúng vậy."
"Vương thượng có thể triệt một trong bốn lộ binh mã, chia quân thành hai đường, tiến lên phía Bắc chặn đường cấm quân chi viện Tượng Châu.
Tào Lợi Dụng người này thần cực kỳ quen thuộc, chỉ hám lập công!"
"Tốt, cô sẽ dẫn quân đích thân đi đánh chặn, nơi này sẽ giao cho quân sư toạ trấn."
"Chẳng lẽ đám Vương hầu khanh tướng đó vừa sinh ra đã cao quý sao.
Tên Hoàng đế họ Triệu kia tham sống sợ chết, sợ hãi lấy lòng người Khiết Đan, lại hà khắc cực điểm với quân lính của mình, thật không xứng làm chủ thiên hạ.
Cô muốn đoạt thiên hạ của Triệu thị, lấy u vân mười sáu châu về."
"Ngô vương thánh minh!"
Sau khi đại quân đến Quảng Nam, bởi vì khí hậu quá nóng ẩm, lại thêm lặn lội đường xa, cấm quân từ kinh thành đến không thể thích nghi, rất nhiều người lập tức ngã bệnh.
"Thám báo về báo, phản tặc Trần Tiến đích thân dẫn binh tiến lên phía Bắc!"
"Đến hay lắm, đỡ cho ta phải đi tìm hắn!"
"Nguyên soái, Tào tuần kiểm đã mang quân đến, chúng ta nên tìm một nơi hội hợp với ông ấy."
"Tào Khắc Minh?" Tào Lợi Dụng cười hừ một tiếng: "Chẳng qua là một tên trẻ tuổi khí huyết phương cương thôi, trong tay hắn có thể có bao nhiêu người!"
"Nhưng Tào tướng quen thuộc địa hình Quảng Nam, chúng ta cũng không quen thuộc địa hình đường thuỷ ở đây, tuỳ tiện giao chiến..."
"Không phải trước đây người nói phải nhanh chóng chi viện sao, hiện giờ chúng ta đến rồi ngươi lại khuyên ta rút lui, là có ý gì?"
"Hai chuyện này không giống nhau!"
"Nguyên soái, mạt tướng cho rằng phò mã nói rất đúng, quân ta ngày đêm lên đường đã mệt mỏi bất kham, hiện giờ không nên qua loa nghênh chiến." Đinh Thiệu Văn đột nhiên đứng ra ủng hộ Lý Thiếu Hoài.
Hai vị phó tướng khuyên bảo, thân là chủ soái Tào Lợi Dụng đành phải từ bỏ: "Đến nơi nào hội quân cho thoả đáng?"
Hai người đồng thời chỉ vào một nơi trên sa bàn.
Đinh Thiệu Văn nhếch miệng cười: "Xem ra phò mã và Bá Văn là anh hùng ý đồng quan điểm."
Lý Thiếu Hoài cười đáp: "Hoài chưa từng ra trận, so với người kinh nghiệm sa trường dày dặn như tướng quân, vẫn là rất kém." Nàng nghĩ hai quân giao chiến, Đinh Thiệu Văn hẳn là sẽ không vì ân oán cá nhân mà bỏ mặc lợi ích chung.
Nàng chết cũng không đáng tiếc, nhưng nếu làm mất Quảng Nam, như vậy giang sơn Đại Tống sẽ thật sự nguy rồi.
Đinh Thiệu Văn dù hận nàng thế nào, cũng không thể đùa giỡn với an nguy quốc gia.
Hoàng đế dù có sủng tín Đinh thị thế nào, đụng đến an nguy quốc gia, chỉ sợ cũng sẽ không nhân nhượng.
Đinh Thiệu Văn là người thông minh.
Nhưng nên phòng vẫn phải phòng.
"Người tới, truyền tin cho Đô tuần kiểm sử Tào Khắc Minh, hội quân ở Quý Châu."
"Vâng!"
————————
Chiêu Khánh phường.
Người hầu trong phủ của Trường Trạch huyện chủ ngoại trừ cung nhân và Nội Thị Tỉnh, còn có một số thị nữ người Hồi Hạc, ngôn ngữ giao tiếp chủ yếu của họ là ngôn ngữ vùng Tây Hạ.
Hầu hết những người ở trong cung đều đã vào cung từ nhỏ, ngôn ngữ được học cũng là tiếng phổ thông.
Tiếng Lạc Dương và tiếng Tây Hạ khác nhau, khiến hai bên nhiều lần bất đồng ngôn ngữ.
"Điện hạ, hai tháng trước Vương đình truyền tin ra, nói là Lão vương hậu đã về cõi tiên."
"Rốt cuộc thì Dã Lợi thị cũng chết rồi sao!" Đối với người mà nàng là gọi mẫu hậu mười mấy năm, cái chết của bà ta cũng không khiến nàng đau khổ bao nhiêu.
"Hiện giờ Tống triều đang phản loạn ở phía Nam, nếu có thể làm cuộc nổi loạn này kéo dài lâu hơn một chút, ảnh hưởng lớn hơn một chút, triều đình sẽ chuyển sự chú ý về phía Nam, như vậy phía Tây sẽ buông lỏng, Tây Hạ cũng có thể mượn cơ hội này phát triển."
"Ngươi biết đường biên giới của Đại Tống dài hơn Tây Hạ gấp bao nhiêu lần không?" Lý Cẩn Nguyệt lạnh mặt nhìn nàng.
Thị nữ cúi đầu: "Nô không biết."
"Phản quân ở Quảng Nam, dù có muốn đánh thì một hai năm cũng không thể đánh tới thành Đông Kinh này.
Tống không phải Đường, thế lực của phiên trấn không đáng sợ.
Thái độ của Đông Kinh với cuộc phản loạn lần này ở phía Nam rõ ràng là không thèm để ý.
Trận này dễ bình, lại cách ta vạn dặm, đại quân chi viện còn phải đi hơn một tháng mới tới, làm sao ta nhiễu loạn?"
"Sự thành do người, ở Tây Nam còn có Đại Lý và Thổ Phiên.
Thổ Phiên vẫn luôn thèm muốn Trung Nguyên."
Lý Cẩn Nguyệt híp mắt, cười lạnh một tiếng: "Dã tâm của huynh trưởng cũng không nhỏ, lá gan cũng rất lớn, nhưng ta chỉ muốn đảm bảo bình an cho Tây Hạ, còn những chuyện khác...!ta mặc kệ."
"Từ khi ngài gặp Huệ Ninh công chúa gì đó, liền thay đổi."
"Được rồi, từ trước đến nay ta đều làm việc theo sở thích, không cần ngươi phải dạy bảo!"
Thị nữ quỳ xuống, hai bên vạt áo bị đè ép thành nhăn nhó: "Nô không dám!"
Lý Cẩn Nguyệt xoay người nhìn ả thị nữ đang chắp tay quỳ gối, thở dài một hơi nói: "Nếu muốn gửi mật thư về báo cáo, cứ nói Đông Kinh yên ổn, cuộc phản loạn này dễ bình, nhưng không dễ an."
"Vâng."
"Cuộc phản loạn này, có lẽ không cần người ngoài nhúng tay vào cũng sẽ khiến Tống hoàng lo lắng bất an!"
Ngoại trừ các đại thần phải vào cung trong ngày nghỉ, cứ mỗi đầu tháng và cuối tháng các công chúa được gả ra ngoài cũng phải về đại nội thỉnh an.
Trước khi