Sáng hôm sau, hai người thu xếp xong xuôi, Ngô Sương ra sân trước chờ đợi Thích Nam Giao lên đường.
Lát sau Thích Nam Giao ra đến hỏi :
- Chúng ta định đi theo đường nào?
- Từ đây đến Giang Tây Bàng Sơn chỉ có đi về hướng đông, qua Đồng Quan đến Hà Nam rồi rẽ sang hướng nam, qua Bành Thành thẳng đến Giang Hán, sau đó cứ đi tiếp về hướng Nam, lộ trình trăm dặm, ngoài ra không còn hướng nào gần hơn nữa.
- Sư huynh vẫn định đi tìm Công Tôn Thụ ư?
Ngô Sương ngẩn người :
- Chưa gặp được ông ấy, đâu thể bỏ dở giữa chừng, nếu ở đây chờ đợi thì biết đến bao giờ mới gặp, đành phải đến Lư Sơn một chuyến thôi.
- Vậy thì sư huynh cứ đi!
Ngô Sương sững sờ, nếu hôm qua nàng nói vậy thì tốt biết mấy, nhưng sau một đêm trò chuyện với nàng, giờ đây chàng đã sinh lòng quyến luyến, bèn hỏi :
- Còn sư muội thì sao?
- Tiểu muội đến Nhị Lang miếu dưới chân núi Thanh Thành ở Tây Xuyên lấy một vật do gia phụ cất giấu, nếu sư huynh có hứng thú thì hãy đi với tiểu muội, không thì sư huynh cứ tự tiện.
Ngô Sương do dự một hồi, vẻ khó xử nói :
- Như vậy chẳng phải chúng ta đi một vòng quá to hay sao? Hơn nữa, lên Thanh Thành lại phải nấn ná rất nhiều ngày nữa.
Nhưng sợ Thích Nam Giao phật ý, lại nói tiếp :
- Chẳng phải ngu huynh không muốn đi, nhưng nếu trễ nải quá lâu Công Tôn lão tiền bối lại rời Lư Sơn đến nơi khác, vẫn sẽ hoài công còn gì?
- Ai bảo là lên Thanh Thành nào, tiểu muội chỉ đến chân núi thôi, còn lên hay không thì tùy sư huynh. Vừa rồi tiểu muội chẳng phải đã nói rồi hay sao? Đi hay không là tùy ở sư huynh, tiểu muội không chút có ý ép buộc. Tuy nhiên, sư huynh bảo là đi trễ sợ không gặp được Công Tôn lão tiền bối, đó phải xem sư huynh có duyên phận hay không. Cổ nhân có câu “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng”. Nếu hữu duyên, dù đến muộn vẫn gặp, còn như vô duyên thì dù đến sớm cũng chẳng gặp. Vả lại, chúng ta cũng có thể đi theo những con đường gần nhất, khi đến Thanh Thành lấy được vật cất giấu xong, chúng ta tức khắc đến Ba Du, đi thuyền xuôi dòng Dân Giang thẳng đến Giang Hán, không mất bao nhiêu thời gian, lại còn có thể nhân tiện ngắm cảnh Tam Hạp nữa.
Ngô Sương nghĩ thấy cũng phải, bèn nói :
- Vậy thì chúng ta hãy đến Thanh Thành trước!
Thích Nam Giao liền ngoảnh đi phía khác cười thầm.
Thế là hai người bèn từ Hoa Âm đi về hướng tây, qua Hàm Dương, Trường An, Ngũ Đài, Thái Bạch theo đường núi Hán Trung đi về hướng Nam.
Đúng như Thích Nam Giao đã nói, hai người như thế toàn đi theo lối gàn nhất, trên đường rất vắng người, họ có thể thi triển hết tốc độ khinh công.
Chừng nữa tháng sau, vào lúc chiều tối hai người đã có mặt tại Quán Thành Tây Xuyên, Dân Giang mênh mang, Thanh Thành đã hiện ra trong tầm mắt.
Nhị Lang miếu ở ngay bên bờ Dân Giang cách huyện thành không xa, đêm hôm ấy hai người bèn nghỉ lại trong thành.
Vùng này gần sông núi nên khí hậu rất mát mẻ, đêm ngủ ngon lành.
Sự mỏi mệt trải qua gần hai mươi ngày bôn ba dặm đường, hoàn toàn tan biến sau một giấc ngủ sâu.
Sáng hôm sau trời mưa lất phất, hai người ăn sáng xong, liền hỏi rõ đường đi nơi điếm gia, sau đó đội mưa ra khỏi thành đi về phía Nhị Lang miếu bên bờ Dân Giang.
Từ Quán Thành đến Nhị Lang miếu đi chậm cũng chỉ chừng nửa giờ, trên đường sông rạch dọc ngang.
Lúc này hai người đang đi qua một chiếc cầu, phía trước là hai đường rẽ nam bắc.
Đang lưỡng lự, thấy con đường phía nam có hai người khiên một chiếc kiệu đi đến.
Ngô Sương bèn cất tiếng hỏi :
- Xin hỏi đại ca, đến Nhị Lang miếu đi đường nào vậy?
Kiệu phu đi trước thấy đôi nam nữ trẻ này tướng mạo phi phàm, liền niềm nở chỉ tay nói :
- Hai vị có trông thấy góc nhà mái xanh trong khu rừng kia không? Đó chính là điện Ngọa Giác của Nhị Lang miếu!
Hai người cảm tạ xong, liền đi về phía theo hướng chỉ dẫn của kiệu phu.
Đi chừng thời gian hai tuần trà, Nhị Lang miếu đã hiện ra trước mắt, đến gần mới thấy rằng ngôi miếu này không to lắm, nhưng rất hùng vĩ.
Trong miếu chỉ có một tiền điện thờ phụng cha con Nhị Lang Thần với mấy mươi pho tượng quanh đại điện chẳng rõ là thần gì, ngoài ra đều là những liễn đối ca tụng công tích trị thủy của hai cha con Nhị Lang Thần.
Phía sau đại điện có một tiểu viện, chỉ có mấy gian nhà trệt, hẳn là chỗ ở của người giữ miếu.
Hai người đang nhìn quanh, bỗng thấy một người tuổi ngoài ba mươi, vẻ như bộc nhân, chân trần và đầu quấn khăn trắng, tay xách một ấm nước từ hậu viện đi ra.
Thích Nam Giao liền cất tiếng hỏi :
- Ô! Cổ tiên sinh có đấy không?
Người ấy ngạc nhiên, quay nhìn Thích Nam Giao hỏi :
- Cô nương tìm Cổ tiên sinh chẳng hay có việc gì?
- Phiền hãy báo với Cổ tiên sinh là có khách từ xa đến hỏi nhân quả.
Ngô Sương đứng bên càng nghe càng thắc mắc, câu thứ nhất hỏi tìm Cổ tiên sinh, lối xưng hô tuy khác lạ, nhưng chắc chắn là tìm một người. Câu thứ nhì không hỏi lấy vật, mà lại hỏi nhân quả. Vị sư muội này thật quái lạ, muốn hỏi nhân quả, miếu tự nào mà chẳng hỏi được, hà tất phải xa xôi lặn lội đến Tây Xuyên làm gì?
Ngay khi ấy bỗng từ trong hậu viện vọng ra một tiếng nói rắn rỏi :
- Tu Bình, hãy mời khách vào hậu viện dùng trà!
Người có tên Tu Bình liền nói :
- Xin mời hai vị ra phía sau!
Đoạn quay người đi trước dẫn đường, Thích Nam Giao và Ngô Sương liền theo sau đi vào hậu viện.
Khu vườn phía sau có nhà chính năm gian và nhà ngang ba gian ở phía đông, lối đi dược lát bằng đá xanh, hai bên trồng đầy hoa.
Đi trên đường đá, phía trái có thể xem dòng nước Dân Giang, phía phải có thể ngắm cảnh núi Thanh Thành, thật là thanh nhã tuyệt trần.
Lúc này, chỉ thấy một lão nhân xanh gầy diện mạo hiền từ, đầu trọc đang đứng trên lối đi lát đá trước nhà chính, tay phải cầm một chuỗi tràng hạt, miệng cười tủm tỉm.
Hai người đi đến gần, Ngô Sương hết sức thắc mắc, người này không tăng không tục, chẳng phải hòa thượng cũng chẳng phải đạo sĩ, xem ra lại giống trụ trì ngôi miếu này, thật ra ông ta là ai thế nhỉ?
Bỗng nghe Thích Na Giao cất tiếng nói :
- Lão trượng là Cổ tiên sinh phải không?
Lão nhân gật đầu cười :
- Mọi người gọi đức Phật là Cổ tiên sinh, lão phu vốn không phải họ Cổ, bởi duyên trần chưa dứt, lại một lòng hướng Phật, nên trước khi nương tựa Phật môn đã đổi là họ Cổ, kẻ hiếu sự bỡn cợt thêm vào hai từ tiên sinh, lão phu đâu dám làm ô nhục đến Phật tổ.
Thích Nam Giao biết đối phương chính là người mình đang cần tìm, bèn nói :
- Xin hỏi lão trượng, Phật tổ có nhân quả, thật ra nhân là sao và quả là sao?
Cổ tiên sinh ngẩn người, nhưng liền lại cười nói :
- Nhân là gây ra, quả là nhận lấy! Trồng thiện nhân ắt được thiện quả, trồng ác nhân ắt được ác quả.
Thích Nam Giao lại hỏi :
- Nhà Phật có thuyết vô biên, chẳng hay giải thích thế nào?
- Trong khởi khí luận nói, hư không vô biên nên thế giới vô biên, thế giới vô biên nên chúng sanh vô biên, chúng sanh vô biên nên tâm hành sai biệt cũng là vô biên.
Thích Nam Giao ngẫm nghĩ một hồi, lại hỏi :
- Vãn bối còn một điều không hiểu, dám xin lão trượng chỉ điểm tiếp cho. Sự vô biên của Phật thuyết phải chăng chính là vô biên vô trở?
Cổ tiên sinh lắc đầu :
- Vô biên vô trở là tất cả thuộc trời, sự đi lại không gặp trở ngại, không bị ngưng trệ, đó là “thời” khác với sự vô biên của nhà Phật là “không”.
Ngô Sương đứng bên nghe hai người đối thoại, hệt như bị sa vào sương mây ngàn dặm, chẳng hiểu ất giáp gì cả.
Cổ tiên sinh không chờ Thích Nam Giao hỏi, lại