[1] Trích trong bài từ theo điệu Ngu mỹ nhân của Nạp Lan Tinh Đức, nhan đề Chiều thu tản bộ. (ND)
Thiếu Hạo miên man nghĩ ngợi rồi bất chợt phá lên cười. Y không cần vợ mà cần ngôi báu, người phụ nữ đứng bên ngôi báu cũng chẳng thể là vợ, bởi ngôi báu quá nhỏ hẹp, không chứa nổi hai người sánh vai đứng cạnh nhau.
Mồng năm tháng Năm là tết Tháng Năm của Cao Tân, cũng là ngày đại cát để
thành hôn. Hôn lễ của Cao Tân Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt được cử hành
vào hôm đó.
Trăm họ Hiên Viên đều thích tài hoa, trọng anh hùng, Cao Tân Thiếu Hạo là nam nhi xuất chúng nhất trong thiên hạ, là tấm
chồng hoàn mỹ mà thiếu nữ nào cũng tha thiết ước mong, thấy vương cơ duy nhất của mình được gả cho Thiếu Hạo, bọn họ hết sức vui mừng. Muôn dân
Cao Tân lại ưa huyết thống, trọng dòng dõi, Hiên Viên Bạt là con gái
Chính phi Luy Tổ của Hoàng Đế, tuy huyết thống của Hiên Viên Hoàng Đế
hơi kém nhưng Luy Tổ xuất thân từ nhà Tây Lăng danh gia vọng tộc, mang
huyết thống tôn quý, trong tộc từng có một vị Viêm Hậu nên Hiên Viên Bạt gả cho Đại vương tử của họ cũng xứng đôi.
Tuy phong tục mỗi nơi mỗi khác nhưng chẳng nghi ngờ gì nữa, cả hai bên đều rất vừa lòng với
cuộc hôn nhân này. Hôn sự của Cao Tân Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt đã trở
thành việc mừng của mọi nhà. Từ sau khi rời khỏi Hiên Viên sơn, đoàn đưa dâu của Hiên Viên đi tới đâu cũng được dân chúng nhiệt tình đón mừng và chúc phúc.
Xương Ý gõ gõ vào xe loan, phấn chấn khoe với Hiên
Viên Bạt ngồi trong: “Muội thấy chưa? Đi đến đâu cũng được người ta múa
hát chúc mừng!”
Hiên Viên Bạt ngồi ngay ngắn trong xe khẽ đáp: “Vâng, muội nghe thấy cả.”
Xương Ý nói: “Trước mặt là sông Tương, đoàn rước dâu của Thiếu Hạo đang chờ ở bờ bên kia, theo nghi thức ta chỉ có thể đưa muội đến bờ sông mà thôi,
hay là nghỉ lại đây một lát?”
“Vâng.”
Xương Ý tựa vào
thành xe khẽ nói: “Rõ ràng ta nên vui mới phải, nhưng ta lại vừa vui vừa buồn, chỉ mong vĩnh viễn đừng đi tới sông Tương.”
Hiên Viên Bạt cũng tựa đầu vào thành xe, như thể đang dựa vào Tứ ca: “Huynh đừng lo,
Thiếu Hạo là bạn thân của Đại ca, nhất định sẽ đối tốt với muội, vả lại
muội gả tới Cao Tân, huynh vẫn có thể tới thăm kia mà.”
Xương Ý cười: “Ừ, ta cũng nghĩ thế đấy. Nhược Thủy, đất phong của ta rất gần Cao Tân mà.”
Hiên Viên Bạt lại hỏi: “Khi nào huynh cưới chị dâu tương lai?”
“Sắp rồi, tới chừng đó coi như cũng có cớ để muội về nhà đoàn tụ với cả gia đình.”
“Tứ ca, sau này huynh nhớ săn sóc cho mẹ nhé.”
“Được, ta sẽ chăm lo thật tốt cho Người, muội khỏi lo.”
Vừa nói tới đó đã nghe lễ quan phụ trách giờ giấc nghi thức giục giã: “Điện hạ, nếu còn chùng chình sẽ lỡ giờ lành đó, đoàn rước dâu của Cao Tân đã đến bờ sông rồi kìa.”
Xương Ý khẽ thở dài rồi lệnh cho cả đoàn tiếp tục lên đường.
Chỉ lát sau đã đến bờ sông Tương.
Đoàn rước dâu và đưa dâu đứng hai bên bờ trông sang nhau, tiếng kèn trống
réo rắt vô cùng nào nhiệt, lại thêm dân chúng đôi bờ reo hò mừng rỡ
khiến cả đất trời tràn ngập niềm vui.
Hiên Viên Bạt được Xương Ý đỡ xuống xe loan, theo lề lối Cao Tân coi màu trắng là tôn quý nhất,
nàng mặc một bộ đồ trắng tinh tha thướt, Thiếu Hạo bên kia cũng áo bào
mũ ngọc, phong nhã hào hoa. Cả hai đứng ở đôi bờ nhìn nhau, người tóc
xanh phơi phới, thanh lệ vô song, kẻ vạt áo tung bay, phong tư trác
nguyệt, khiến dân chúng tới xem lễ đông nghẹt hai bên bờ mở cờ trong
bụng, thầm ca tụng tân lang tân nương quả là trời sinh một cặp, như ngọc như ngà.
Tiếng kèn trống réo rắt chợt im bặt, lễ quan tiến lên dâng lời chúc phúc, sau đó là thỉnh chuông, gõ khánh.
Trong tiếng chuông khánh ngân vang văng vẳng, một trăm đồng nam đồng nữ Cao Tân mình vận lễ phục bắt đầu ca khúc rước dâu.
“Tổ kia thước ở sẵn sàng
Chim cưu bay đến đậu quàng vào trong
Bây giờ nàng ấy lấy chồng
Ngựa xe như nước tới cùng đón dâu
Tổ kia thước ở đã lâu
Cưu đâu bay đến tranh nhau ở bừa
Bây giờ nàng lấy con vua
Ngựa xe như nước đi đưa tiễn nàng
Tổ kia thước ở rõ ràng
Chim cưu kéo đến cả đàn ở tranh
Nàng kia cưới đúng giờ lành
Ngựa xe như nước chầu quanh chúc mừng[2].”
[2] Bài thơ Thước sáo trích trong Kinh Thi. (ND)
Trong tiếng nhạc nhã tưng bừng của Cao Tân, gắn ngàn cánh Huyền điểu mỹ lệ
bay tới bắc thành nhịp cầu nối đôi bờ sông Tương, đây là nghi thức rước
dâu long trọng nhất của Cao Tân, hơn vạn năm nay, tuy đã có vô số đám
cưới trong vương tộc nhưng chỉ có chính phi của Tuấn Đế mới được dùng
nghi thức này.
Dân chúng đôi bờ chưa từng chứng kiến cảnh tượng lạ lùng đẹp đẽ như vậy, không hẹn mà cùng rộ lên tiếng hoan hô kinh ngạc.
Thiếu Hạo được chim thước dẫn đường, đi qua cầu Huyền điểu tiến về Hiên Viên Bạt, gió lay vạt áo, phong độ đường hoàng.
Xương Ý tươi cười lùi lại mấy bước, nói nhỏ với A Hành: “Muội đi đi! Chú rể
của muội đang đợi phía trước kìa.” Chứng kiến nghi thức rước dâu long
trọng của Cao Tân, cuối cùng y cũng có thể yên tâm tiễn em gái sang sông lấy chồng.
Trong tiếng hát du dương mà long trọng, dưới sự dẫn
đường của chim thước, Hiên Viên Bạt bước lên cầu Nhân Duyên do Huyền
điểu kết thành.
Ánh dương rực rỡ, gió mát hiu hiu, lau lách
trắng xóa đôi bờ sông Tương, trên sông sóng biếc lăn tăn, không một bóng thuyền, chiếc cầu Huyền điểu cong cong tựa cầu vồng bắc ngang sông,
rạch ngang cả hư không, nối liền hai bên bờ.
Theo đúng nghi thức, Thiếu Hạo cùng Hiên Viên Bạt thong thả bước lên cầu.
Tất cả mọi người đều hồi hộp đổ dồn mắt vào bọn họ, chờ đợi phút giây họ gặp nhau giữa cầu, tay nắm lấy tay.
Đột nhiên giữa không trung vang lên tiếng thét đầy giận dữ như xuyên mây phá núi vọng tới: “Tây Lăng Hành!”
Khúc hát rước dâu được cả trăm đồng nam đồng nữ Cao Tân đồng thanh ca vang
cũng chẳng át nổi tiếng thét bi phẫn từ trời cao vọng xuống kia. Nhưng
Hiên Viên Bạt như không nghe thấy, vẫn tiến về phía Thiếu Hạo.
Thiếu Hạo liếc nhìn trời, chân vẫn bước về phía Hiên Viên Bạt như chẳng nghe
thấy gì, nhưng ngón tay ngầm kết lại thành linh ấn khiến gió nổi lên
lồng lộng, sương khói phủ mờ mặt sông, hơi nước nghi ngút, che khuất tầm nhìn của đám người hai bên bờ.
Khi hai người bước đến giữa cầu, sương khói đã giăng mờ sông Tương, Thiếu Hạo đưa tay về phía Hiên Viên
Bạt, nàng cũng đang định đặt tay vào tay y, đột nhiên giữa biển mây cuồn cuộn một nam tử vận hồng bào đỏ rực như máu, chân đạp trên lưng đại
bàng đen từ trời bay xuống, cặp mắt đầy giận dữ và bi phẫn, thét gọi
nàng: “Tây Lăng Hành, cô quên lời hẹn giữa chúng ta rồi sao?”
Hiên Viên Bạt trấn tĩnh tinh thần, đoạn ngoảnh đầu lại, nào ngờ vừa quay lại nàng đã thấy tròng mắt nhói lên, sắc đỏ rực đó như xói vào mắt nàng,
hắn đang mặc trên người tấm áo do chính tay nàng chăn tằm dệt vải may
thành.
“Cô quên lời thề của mình rồi sao? Cô đã thề hàng năm sẽ gặp ta dưới cội hoa đào, vậy mà bây giờ lại bằng lòng gả cho y?”
Xi Vưu bay tới bên cạnh họ, phẫn nộ chất vấn.
A Hành chỉ cười nhạt nói: “Ta chẳng hiểu ngươi nói gì cả, xin ngươi đi ngay cho.”
“A Hành, đi với ta đi!” Xi Vưu đưa tay cho Hiên Viên Bạt, vẻ mặt quật
cường kiên nghị nhưng ánh mắt lại thấp thoáng khẩn cầu, “Là cha cô, Đại
ca cô ép buộc cô ư?”
Hiên Viên Bạt đăm đăm nhìn Xi Vưu, lòng dạ
rối bời, hắn dám công nhiên tới cướp dâu thế này tức là liều mạng thách
thức cả thiên hạ, đến lúc đó dù Du Võng muốn bao che cho hắn cũng không
thể lấp liếm nổi.
“Từ nhỏ ta đã có hôn ước với Thiếu Hạo, gả cho chàng là đương nhiên, cần gì phải ép buộc?” Nàng vừa nói vừa nhìn về
phía Thiếu Hạo. Từ đầu đến cuối Thiếu Hạo vẫn bình tĩnh ung dung, dường
như mọi chuyện trước mắt chẳng liên quan gì tới y.
Hiên Viên Bạt đặt tay mình vào tay Thiếu Hạo, Thiếu Hạo tươi cười, nắm lấy tay nàng.
Thấy vậy Xi Vưu lập tức ra tay toan giành lấy Hiên Viên Bạt từ Thiếu Hạo,
Thiếu Hạo một tay nắm lấy Hiên Viên Bạt, tay kia giơ ra đỡ lấy đòn như
sấm sét của Xi Vưu.
Kẻ đánh người đỡ, tay hai người bắt vào nhau, Xi Vưu bừng bừng lửa giận, Thiếu Hạo lại bình thản như nước.
Thiếu Hạo là đệ nhất cao thủ Thần tộc nổi danh cả ngàn năm nay, thực lực thâm sâu khó dò, chỉ trong một sát na, Xi Vưu đã hiểu mình hoàn toàn không
phải là đối thủ của y, nhưng hắn vẫn bất chấp hết thảy, liên tiếp ra
đòn, lăm le muốn giành lại A Hành từ tay Thiếu Hạo.
Thiếu Hạo
vừa hóa giải chiêu thức của Xi Vưu vừa ôn hòa lễ độ thuyết phục: “Xi Vưu Đại tướng quân, hôm nay là hôn lễ của hai nước Hiên Viên và Cao Tân,
mời ngài theo thị nữ lên Quan Lễ đài dự lễ.”
Xi Vưu chẳng nói
chẳng rằng, chỉ tấn công như điên như dại, tuy Thiếu Hạo đã giăng kết
giới phong tỏa tất cả, dân chúng hai bên bờ hoàn toàn không nghe thấy
được mọi chuyện đang diễn ra, nhưng dây dưa quá lâu nhất định sẽ khiến
họ sinh nghi.
Chẳng thể lằng nhằng với Xi Vưu mãi, y đành nói
nhỏ: “Xin đắc tội!” Dứt lời năm ngón tay y liền biến thành năm con thủy
long trắng xóa, ngẩng đầu há miệng lao về phía Xi Vưu.
Sóng cuộn ngập trời, bị năm con rồng đồng loạt công kích, Xi Vưu không sao chống
đỡ nổi, rớt khỏi lưng đại bàng rơi xuống sông, đại bàng kêu lên một
tiếng bi thương rồi vội vã lao xuống cứu chủ.
Một bàn tay Thiếu
Hạo trước sau vẫn nắm chặt lấy tay Hiên Viên Bạt, y nhìn nàng như dò
hỏi, thấy Hiên Viên Bạt gật đầu, y liền dắt nàng bước tiếp.
Vừa
đi được một quãng, bỗng Xi Vưu đột ngột từ dưới nước lao lên, thúc đại
bàng chặn trước mặt hai người, hắn đã bị thương, cả người ướt sũng,
trông vô cùng nhếch nhác nhưng gương mặt vẫn đầy vẻ kiệt ngạo ngông
cuồng, chẳng hề sợ hãi, cũng chẳng buồn để tâm rằng mình không phải đối
thủ của Thiếu Hạo, hai bên bờ lại có quân tinh nhuệ của Cao Tân và Hiên
Viên, chỉ cần Thiếu Hạo ra lệnh, hắn sẽ bị giết ngay tại chỗ.
Hai bàn tay Xi Vưu chợt đỏ rực lên như máu, chuẩn bị ra tay, lần này Thiếu
Hạo cũng không dám khinh địch đành buông Hiên Viên Bạt ra, chậm rãi giơ
tay trái lên. Thấy vậy Hiên Viên Bạt hoảng hốt chạy tới chắn trước mặt
Thiếu Hạo, cao giọng mắng Xi Vưu: “Quân càn rỡ không hiểu lễ giáo kia,
muốn cướp dâu cũng phải xem mình có xứng không chứ, Thiếu Hạo thân phận
tôn quý, thần lực cao cường, dung mạo tuấn tú, ngươi có chỗ nào sánh
được với chàng? Lẽ nào ta lại bỏ trân châu đi vớt mắt cá ư? Ngươi biết
thân biết phận chút đi, đừng làm chuyện không tự lượng sức nữa!”
Xi Vưu sững sờ nhìn A Hành như không tin vào tai mình, niềm căm uất trào
dâng, bi thương và phẫn nộ cuộn lên trong lòng khiến lồng ngực hắn phập
phồng dữ dội, “Ta không tin đây là lời nói của Tây Lăng Hành mà ta
quen.”
“Ngươi tự mình kêu Tây Lăng Hành đấy chứ, ta nói ngươi hay, từ đầu chí cuối chỉ có Hiên Viên Bạt mà thôi.”
Cặp mắt Xi Vưu vụt tối sầm, hắn không giận mà còn cười vang, gật gật đầu,
“Té ra ta có mắt như mù, đã đặt tình cảm nhầm chỗ!” Nói rồi hắn vừa cười thê thiết vừa cởi áo ném trả A Hành.
Đại bàng sải cánh đưa hắn
bay đi mất, trong nháy mắt cả người cả chim đều khuất sau màn khói mây
mờ mịt, chỉ còn manh áo bào đỏ rực phất phơ rơi xuống trước mặt Hiên
Viên Bạt.
Tổ kia thước ở sẵn sàng
Chim cưu bay đến đậu quàng vào trong
Bây giờ nàng ấy lấy chồng
Ngựa xe như nước tới cùng đón dâu
Gió nổi lên xua tan hết mây mù, dân chúng đôi bờ lại nhìn rõ cảnh tượng
trên sông, thấy Thiếu Hạo đã đứng bên Tây Lăng Hành, họ xôn xao mừng rỡ
rồi hòa giọng với đội lễ nhạc Cao Tân ca vang khúc rước dâu:
Tổ kia thước ở đã lâu
Chim cưu bay đến tranh nhau ở bừa
Bây giờ nàng lấy con vua
Ngựa xe như nước đi đưa tiễn nàng
Tổ kia thước ở rõ ràng
Chim cưu kéo đến cả đàn ở tranh
Nàng kia cưới đúng giờ lành
Ngựa xe như nước chầu quanh chúc mừng.
Trong tiếng hát rước dâu rộn rã, trước sự mong đợi hân hoan của dân chúng hai bên bờ, Thiếu Hạo và Hiên Viên Bạt nhìn nhau, chẳng hẹn mà cùng đưa tay ra nắm chặt lấy tay người kia.
Tức thời dân chúng đôi bờ đều đồng loạt hoan hô vang trời dậy đất, tiếng reo hò lan đi khắp nơi, chấn động cả mây xanh.
Nghe tiếng reo mừng vẳng lại, Xi Vưu đang ngồi trên lưng đại bàng vận linh
lực trị thương lập tức rối loạn khí tức, máu tươi trào lên tận cổ họng
nhưng hắn cương cường nghiến răng nuốt xuống.
Thiếu Hạo nhìn tấm áo đỏ rực dưới chân chần chừ chưa dám bước lên, trái lại Hiên Viên Bạt
lờ đi như không thấy, dẫm thẳng lên hồng bào, nhờ Huyền điểu dẫn đường,
hai người lại đi tiếp.
Từng bước từng bước băng qua cầu Huyền điểu theo đúng lễ nghi, bước lên mảnh đất thuộc Cao Tân quốc.
Hàng ngàn cánh Huyền điểu chao liệng trên không, muôn vàn đóa hoa rợp trời khoe sắc, vô số dân chúng reo hò nhảy múa.
Bây giờ nàng ấy lấy chồng
Ngựa xe như nước tới cùng đón dâu
Bây giờ nàng lấy con vua
Ngựa xe như nước đi đưa tiễn nàng
Nàng kia cưới đúng giờ lành
Ngựa xe như nước chầu quanh chúc mừng.
Men theo con đường rực rỡ sắc hoa, Thiếu Hạo nắm tay Hiên Viên Bạt tới
trước cỗ xe ngọc chạm trổ rồng bay phượng múa, Hiên Viên Bạt vén áo bước lên nhưng bất giác vẫn ngoái đầu ngóng sang bờ bên kia, nơi đó là cố
quốc nơi nàng sinh ra và lớn lên, có những người thân yêu ruột thịt của
nàng.
Như có cảm ứng tâm linh, Xương Ý cũng lập tức giơ tay, vừa chạy dọc bờ sông, vừa vẫy vẫy tay với nàng.
Hiên Viên Bạt mỉm cười, quay mình bước lên xe ngồi cạnh Thiếu Hạo, nhưng
đúng lúc xe ngọc bay lên, nàng không khỏi ngoảnh đầu dõi mắt trông về xa tít cuối trời.
Giờ hắn thế nào rồi!?
Cao Tân Thiếu Hạo
dùng nghi lễ long trọng nhất cưới Hiên Viên Bạt về làm vợ, Tuấn Đế cũng
vô cùng sủng ái nàng dâu vừa vào cửa, ban cho nàng ở Thừa Hoa điện- cung điện lớn thứ hai trong Ngũ Thần sơn[3], các ân điển khác cũng khó mà kể xiết.
[3] Ngũ Thần sơn: ở Quy khư, nơi ngàn vạn dòng nước cùng
đổ về có năm ngọn núi, vì là nơi ở của thần tiên nên được tôn xưng là
Ngũ Thần sơn. Theo Sơn Hải kinh ghi chép về nơi ở của Thần hệ Tuấn Đế,
Viên Kha tiên sinh cho rằng dòng dõi Tuấn Đế cai quản cả Ngũ Thần sơn.
Theo sách Liệt Tử, phần Thang Vấn chép: “Đi về phía Đông Bột Hải chẳng
biết bao nhiêu dặm có cùng biển lớn, sâu thẳm không đáy, tên gọi Quy
khư. Nơi đó có năm ngọn núi, tên gọi lần lượt là Đại Dư, Vân Kiều,
Phương Hồ, Tiệm Châu, Bồng Lai, chu vi toàn bộ ba vạn dặm, cao tới chín
ngàn dặm.”
Cả Cao Tân đều chúc phúc cho Đại vương tử, nhưng Thừa Hoa điện nơi ở của vương tử phi lại tĩnh lặng như tờ. Các cung nhân vốn hầu hạ ở đó chưa biết tính tình vị chủ nhân mới ra sao nên luôn dè dặt
cẩn thận, chẳng dám nhiều lời, còn đám thị nữ tới đây cùng Hiên Viên Bạt lại do Hoàng Đế đích thân tuyển chọn, ai nấy đều là kẻ thận trọng kín
tiếng, không tùy tiện nói năng, bởi vậy toàn cung điện mênh mông nhường
ấy, người hầu kẻ hạ hàng đàn nhưng ai ai cũng đi nhẹ nói khẽ như hồn ma
bóng quỷ, chẳng gây ra tiếng động nào.
A Hành lặng lẽ ngồi trong phòng thẫn thờ như tượng, cảnh tượng lúc ban ngày cứ trở đi trở lại
trong đầu, lúc đó nàng chỉ lo cho an nguy của Xi Vưu, sợ Thiếu Hạo sẽ
nổi giận hạ sát thủ nên phải tức tốc đuổi hắn đi, vậy mà giờ đây, hình
ảnh Xi Vưu bi phẫn cởi áo ném trả rồi quày quả bỏ đi lại hiện ra rành
rành trước mắt nàng.
Liệt Dương đột ngột bay vào cửa sổ, đập phá một trận trong phòng, hất đồ đạc, đánh vỡ cả dạ minh châu khiến căn
phòng tối om, đám thị nữ phải vừa nhớn nhác xua chim vừa cuống quýt thu
dọn mọi thứ. A Tệ lẳng lặng lẻn đến bên A Hành, dúi cho nàng manh hồng
bào đã vấy bẩn kia.
Lúc đám thị nữ đem dạ minh châu tới thắp
sáng lại căn phòng vẫn thấy A Hành ngồi ngay ngắn ở đó. Sợ động chạm đến Đại vương tử phi, họ chẳng dám mắng chửi Liệt Dương, luôn miệng nhận
tội về mình. Liệt Dương đậu trên ngọn cây thấy vậy đắc ý cười sằng sặc
đến rung cả người.
Đã qua canh một, Bán Hạ, thị nữ được gả theo
nàng tới đây bước vào khẽ thưa: “Xin vương tử phi đi nghỉ trước đi, xem
tình hình chắc đêm nay điện hạ không tới đâu.”
“Cứ đợi đi.”
Hiên Viên Bạt tin chắc đêm nay Thiếu Hạo sẽ tới, bởi nàng biết nhất cử nhất
động ở đây sẽ được trình báo ngay tới Tuấn Đế, hơn nữa y cũng biết Hoàng Đế nắm rõ y có đối tốt với vương cơ của Hiên Viên hay không. Y nhất
định không thể khiến Hoàng Đế hiểu lầm mình được.
Đến canh hai, bên ngoài mới nghe tiếng lao xao: “Điện hạ tới, điện hạ tới rồi.”
Vừa nghe nói đã thấy Thiếu Hạo loạng choạng bước vào, người nồng nặc mùi
rượu nhưng vẫn khá tỉnh táo, dưới sự chỉ dẫn của hỷ bà, y gắng gượng cạn ba chung rượu hợp hoan cùng A Hành.
Đám thị nữ cởi áo ngoài cho Thiếu Hạo rồi lục tục lui ra.
Thiếu Hạo chếnh choáng hành lễ với A Hành: “Trên tiệc có nhiều huynh đệ chúc
rượu quá, ta khó khăn lắm mới thoát được, để nàng phải đợi lâu rồi.”
A Hành khẽ nói: “Có gì đâu chàng.” Đoạn nàng leo lên giường nhắm mắt nằm
in trước. Chỉ lát sau, Thiếu Hạo cũng nằm xuống bên nàng, trong phòng
lập tức tối om.
A Hành cứng người lại, nín thở khép chặt vạt áo, tim đập thình thịch như muốn vọt ra ngoài, nhưng Thiếu Hạo vừa đặt mình xuống đã thiếp đi, nàng đợi hồi lâu chẳng thấy y có động tĩnh gì bèn
lấy ngón tay khẽ khều khều, chắc chắn y đã ngủ mê mệt mới dám thở phào
nhẹ nhõm.
A Hành trở mình quay lưng về phía Thiếu Hạo, lòng ngổn ngang trăm mối, tránh được đêm nay, còn sau này thì sao?
Sáng tinh mơ, nàng chợt nghe Thiếu Hạo khe khẽ gọi: “A Hành, hôm nay chúng
ta phải dậy sớm tới bái kiến phụ vương và mẫu hậu theo quy củ.”
A Hành giật nảy mình, ngồi phắt dậy, trông thấy Thiếu Hạo đã y phục chỉnh tề ngồi cạnh đợi nàng tỉnh giấc.
Thấy A Hành đỏ bừng mặt ngượng ngùng, Thiếu Hạo bèn tiện tay cầm một cuốn
sách lên vờ chăm chú lật xem. Mấy thị nữ bưng hộp nữ trang vừa lén liếc
hai người vừa cười trộm, trong mắt người ngoài, cả hai vẫn là một đôi vợ chồng mới cưới ân ái mặn nồng.
A Hành được các thị nữ hầu hạ trang điểm lộng lẫy rồi cùng Thiếu Hạo tới khấu đầu thỉnh an Tuấn Đế cùng Tuấn Hậu.
Hôm qua là quốc lễ, cả cung điện đông nghịt bề tôi nên A Hành không sao
nhìn rõ mặt Tuấn Đế, mãi tới khi thi hành gia lễ hôm nay, nàng mới được
tận mắt trông thấy ông, cũng hiểu ra tại sao Vương Mẫu lại khen Tuấn Đế
nho nhã phong lưu.
Tuy Tam Đế được xếp ngang hàng với nhau nhưng trên đại hoang chẳng mấy thần tiên may mắn được gặp cả ba vị đế vương,
bởi thế A Hành không khỏi thầm so sánh ba người.
Viêm Đế chẳng
hề để tâm tới bề ngoài của mình, lúc A Hành gặp Viêm Đế, Viêm Đế đang
vận áo ngắn quần thô, chân đi giày cỏ, bàn chân lấm đầy bùn đất hệt như
một ông lão gầy gò tiều tụy, mặt đầy nếp nhăn, nếu không biết thân phận
của ông, nhất định không thể tin ông già đó lại là Viêm Đế Thần Nông thị được cả thiên hạ quy thuận.
Hoàng Đế cũng chẳng chú trọng dung
mạo, chỉ quan tâm tới tôn nghiêm uy thế của bậc đế vương, Theo Hoàng Đế, diện mạo không nên quá già nua, nhìn rất suy nhược, cũng không nên quá
trẻ trung, nhìn thiếu chững chạc, thế nên bao giờ trông Hoàng Đế cũng
chỉ ngoại tứ tuần, nhất cử nhất động đều trầm tĩnh oai nghiêm khiến
người khác phải kính phục, rất phù hợp với hình ảnh Hoàng Đế Hiên Viên
thị uy chấn thiên hạ trong tưởng tượng của mọi người.
Khác với
hai người kia, Tuấn Đế lại vô cùng chăm chút diện mạo của mình, gương
mặt vẫn giữ nguyên nét trẻ trung tuổi hai mươi, cũng chẳng khoác vương
bào, chỉ mặc một bộ y phục bình thường, nhìn giản dị nhưng thực chất lại được dệt từ tơ Ngọc tằm quý hiếm. Nét mặt Tuấn Đế giống Thiếu Hạo tới
bảy tám phần, có điều Thiếu Hạo gom đủ vẻ hào hùng của núi lẫn tình tứ
của sông, còn Tuấn Đế chỉ có nước mà thiếu non, cặp mắt dịu dàng đa
tình, toàn thân toát lên khí chất của người đọc sách, thoạt nhìn giống
hệt một vị công tử ngao du giữa hồng trần.
Lúc A Hành bước vào,
Tuấn Đế đang ngồi đọc sách, vừa xem vừa gật đầu vẻ hài lòng, ngón trỏ
còn vô thức vẽ trong không trung như phác lại những điều ghi trong sách. Thấy thị nữ định thông báo, Thiếu Hạo vội ra dấu ngăn lại rồi lặng lẽ
đứng đợi cùng A Hành.
Nhìn Tuấn Đế, A Hành không khỏi nhớ tới
Xương Ý, Tứ ca của nàng cũng ham mê sách vở y như vậy, so ra y còn thích ca phú thư họa hơn công văn tấu sở nhiều. Nàng bỗng nảy dạ tò mò, liền
lén liếc trộm xem Tuấn Đế đang đọc sách gì, vừa trông thấy, nàng đã phải mím môi nén cười.
Tuấn Đế ngước mắt lên, bắt gặp A Hành đang mím môi nín cười, bèn gập sách lại hỏi: “Con cười gì thế?”
Thiếu Hạo thấy vậy giật thót mình, còn Tuấn Hậu chỉ nửa cười nửa không, ngồi yên quan sát.
A Hành vội quỳ xuống tâu: “Quyển sách phụ vương xem là do một người bạn
con viết ra, thấy phụ vương thích thú như vậy, con chợt cao hứng thay
cho y nên không khỏi thất lễ.”
Tuấn Đế mừng rỡ hỏi: “Con quen
người viết ra những bài ca phú này thật ư? Ta từng phái người đi dò hỏi
về y nhưng chẳng thu được tin tức gì cả.”
A Hành thưa: “Người
nhà y không thích y chú tâm vào việc đó nên y chỉ dám lén lút viết chơi
vậy thôi, có điều y chẳng chịu nổi tịch mịch, lại hận rằng khó tìm được
tri âm, bèn ngấm ngầm lưu truyền những sách vở đó ra ngoài. Giờ đây có
được người tri âm thưởng thức là y mãn nguyện lắm rồi, chẳng cần người
ta biết tới thành danh làm gì.”
Tuấn Đế gật đầu vẻ vô cùng thấu
hiểu, cũng không gạn hỏi thêm nữa, “Đọc những gì y viết, có thể hiểu
được y chẳng màng áo vàng đại ngọc trước cung điện mà chỉ khát cầu một
vành trăng trong giữa bóng tùng, thôi, con đứng lên đi.”
Bây giờ A Hành mới chính thức hành lễ với Tuấn Đế và Tuấn Hậu.
Tuấn Hậu lại ban thưởng cho nàng vô số vật phẩm, người hầu đứng bên cao
giọng xướng tên các món quà cáp. Xưa nay Hiên Viên vương thất sống rất
giản dị nên A Hành từ nhỏ đã chẳng để tâm tới mấy thứ ngọc ngà châu báu
đó, càng không biết thật giả tốt xấu ra sao, nhưng nhìn thái độ đám thị
nữ xung quanh, nàng cũng hiểu được mình được sủng hạnh vô vàn. Có điều
vị Tuấn Hậu này xuất thân từ Thường Hy bộ trong Cao Tân tứ bộ, cũng là
mẹ đẻ của Nhị vương tử Yến Long, từ khi gả cho Tuấn Đế đã sinh liền sáu
con trai. Em gái Tuấn Hậu cũng nhập cung cùng lúc với chị, đứng đầu tất
cả phi tần, sinh được bốn con trai, ba con gái, ba con gái đều gả cho
Bạch Hổ bộ, nên Bạch Hổ bộ luôn kề vai sát cánh với bọn Yến Long và
Trung Dung. Trong triều, thế lực của hai chị em Thường Hy thị vô cùng
hùng mạnh, bởi vậy Tuấn Hậu càng tươi cười hóa nhã, A Hành lại càng
không dám lơ là cảnh giác.
Cao Tân là Thần tộc từ thời thượng
cổ, lễ giáo rất nghiêm, A Hành ra mắt toàn bộ vương hậu, vương phi,
vương tử, vương tử phi, vương cơ xong, lại nhất nhất đem chuyện ở nhà kể ra một lượt, sau cùng mới có thể cáo từ ra về. Rời khỏi đại điện, A
Hành mới thấy quai hàm mình đã cứng đơ lại vì cười.
Thiếu Hạo cùng ngự xe mây xuống núi với A Hành, ngồi trong xe, y khẽ nói: “Người bạn mà nàng nói có phải Xương Ý chăng?”
A Hành kinh ngạc đáp: “ Vâng, là Tứ ca. Nhưng chàng giữ kín giùm, đừng
nói lại với Đại ca nhé, bằng không huynh ấy lại khiển trách Tứ ca.”
Thiếu Hạo nói: “Thật ra, Thanh Dương…” Thấy A Hành chăm chú nhìn mình, y lại lắc đầu: “Không có gì, ta sẽ giữ kín.”
Thiếu Hạo có việc phải giải quyết nên sau khi đưa nàng về Thừa Hoa điện, y lập tức đi ngay.
A Hành vừa đổi sang thường phục mặc trong nhà đã thấy Bán Hạ tới bẩm:
“Nặc Nại tướng quân đến dâng lễ vật lên điện hạ, vì lễ vật quý giá mà
điện hạ lại đi vắng nên y nhất định đòi vương tử phi phải xem qua.”
A Hành liền nói: “Dù sao cũng rảnh rỗi, ta sẽ tới xem sao.”
Nghe tiếng chân người, Nặc Nại vội đứng lên, trông thấy A Hành, y liền mỉm cười hành lễ, nụ cười đượm vẻ chua xót.
A Hành sai tất cả thị nữ lui ra ngoài đợi lệnh, dù sao cửa sổ cũng mở
toang, nhìn qua là thấy hết cảnh tượng trong phòng nên chẳng coi là trái lẽ được.
Nàng vừa hàn huyên với Nặc Nại vừa âm thầm dùng Trụ
Nhan hoa giăng kết giới, đề phòng đám thị nữ nghe lén được lại phiền
phức. Đây là phép thuật Đại ca dạy riêng cho nàng trước lúc lên đường
sang Cao Tân, sau khi y đã xem xét Trụ Nhan hoa một lượt.
Nàng
áy náy xin lỗi Nặc Nại: “Hôm đó trên Ngọc sơn ta nhất thời làm bậy, giả
xưng là Tây Lăng Hành, nào ngờ về sau lại kéo theo nhiều chuyện như vậy, thật có lỗi với tướng quân.”
“Ai mà ngờ đường đường Hiên Viên
vương cơ lại trêu chọc tại hạ như thế chứ? Không phải ta ngu ngốc, là ta hồ đồ nên bị lừa đó thôi.”
Nặc Nại chẳng thể cung kính dạ vâng
với vương tử phi, trái lại còn trả lời với giọng điệu đầy vẻ bực bội tự
trào, càng để lộ thái độ thoải mái mà chân thành. Thấy vậy A Hành không
khỏi thầm khen ngợi y, chẳng trách Thiếu Hạo và Vân Tang lại xem trọng
người này đến thế. “Mấy năm trước ta từng nhờ Thiếu Hạo chuyển cho ngươi một phong thư, sau đó ngươi có đi gặp Vân Tang không?”
“Chẳng
giấu gì vương tử phi, hôm đó sau khi đọc xong
thư, tại hạ nhất thời vẫn
chưa thể nghĩ thông được. Thật ra tại hạ nào phải kẻ hẹp hòi, chỉ là quá xem trọng nên không chấp nhận được dối gian đó thôi. Sau này bình tĩnh
lại mới hiểu rằng hết thảy chỉ là cơ duyên xảo hợp mà lầm, rồi lầm lại
thêm lầm, nhưng bây giờ tại hạ đã có hôn ước, cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp lại nàng, mà gặp rồi biết nói cái gì đây? Tại hạ đành cương quyết
từ hôn trước đã, may nhờ điện hạ giúp cho chu toàn, nhân lúc nhà gái
phạm chút lỗi lầm điện hạ bèn bức Thường Hy bộ hủy bỏ hôn ước. Chuyện
này kể ra chỉ dăm câu ba điều là xong, nhưng lúc đó phải giằng co hơn ba năm mới ổn thỏa. Sau khi từ hôn, tại hạ mừng rỡ cho rằng cuối cùng cũng có thể quang minh lỗi lạc tới gặp Vân Tang, nào ngờ lúc đến Thần Nông
sơn xin Viêm Đế cho gặp Đại vương cơ của Thần Nông, lại…”
Nặc
Nại buồn bã, trầm mặc hồi lâu mới kể tiếp: “Đám thị vệ Thần Nông rất
hung hãn, tại hạ cứ tưởng gặp được nàng là ổn, nhưng nàng cũng hết sức
lạnh nhạt, thậm chí không cho tại hạ lên núi. Dọc đường đi tại hạ còn
hào hứng định ướm ý nàng, nếu tại hạ đến hỏi Viên Đế xin cầu hôn, liệu
nàng có bằng lòng chăng. Nào ngờ tới khi gặp mặt nàng chỉ lạnh nhạt thờ
ơ, đứng dưới núi nói vắn tắt vài câu với tại hạ rồi vội vã từ biệt,
khiến bao nhiệt tình trong lòng tại hạ đóng băng hết thảy, đành ủ rũ
quay về Cao Tân.”
A Hành dịu giọng hỏi: “Giờ ngươi đã hiểu lý do tại sao khi đó Vân Tang lại như vậy chưa?”
Nặc Nại gật đầu, “Có lẽ khi đó bệnh tình Viêm Đế đã nặng lắm rồi, nhớ lại
lúc gặp nhau, tuy Vân Tang làm bộ lạnh lùng nhưng ánh mắt cứ tránh tránh né né, hẳn không muốn tại hạ nhận ra nỗi bi thương trong lòng nàng.
Nàng luôn miệng giục tại hạ về vì không muốn tại hạ phát hiện Viêm Đế
đang bệnh nặng.”
Ánh mắt Nặc Nại khó giấu nổi thương tâm, “Nàng xem thường tại hạ quá! Đến một chút tin tưởng cũng không!”
A Hành vội giải thích, “Ngươi nhầm rồi, không phải Vân Tang tỷ tỷ không
tin ngươi, mà là không muốn ngươi khó xử đó thôi. Viêm Đế bệnh nặng là
tin tức hết sức quan trọng, liên quan tới cục thế thiên hạ cũng như an
nguy của Cao Tân, nếu để ngươi biết được, thân là tướng lĩnh của Cao
Tân, là bạn thân của Thiếu Hạo, ngươi sẽ trung thành với Cao Tân, với
Thiếu Hạo, hay sẽ bảo vệ Vân Tang?”
Nặc Nại sửng sốt, nín lặng
hồi lâu chẳng biết đáp sao cho phải, A Hành lại nói tiếp: “Vân Tang thà
một mình gánh vác tất cả còn hơn để ngươi phải dằn vặt khó xử không biết chọn bên nào. Như vậy ngươi khỏi phải phụ lòng Vân Tang, cũng khỏi phải phản bội Thiếu Hạo.”
Nghe A Hành giảng giải, Nặc Nại liền đứng
dậy hành lễ với nàng, “Đa tạ vương phi thức tỉnh tại hạ khỏi cơn mê, tại hạ xin cáo từ.”
“Ngươi định đi đâu?”
Nặc Nại đi thẳng không ngoảnh lại: “Thần Nông sơn.”
A Hành mỉm cười nhìn theo bóng Nặc Nại tất tả bước đi, thầm mừng cho Vân
Tang, ít nhất Vân Tang cũng còn một vòng tay vững vàng ấm áp để vùi đầu
vào khóc lóc, trút hết mọi đau đớn và uất ức trong lòng. Chợt nghĩ tới
mình, nàng không khỏi âu sầu buồn bã.
Tối đến, A Hành vội đi ngủ thật sớm, chẳng đợi Thiếu Hạo trở về, theo tính toán của nàng, với tính tình Thiếu Hạo, hẳn sẽ không đánh thức nàng dậy. Quả nhiên Thiếu Hạo về đến thấy nàng đã ngủ say, cũng rón rén leo lên giường ngủ, chẳng hề làm phiền nàng.
Sớm hôm sau khi nàng trở dậy, Thiếu Hạo đã đi khỏi, trước lúc đi còn cẩn thận dặn nhà bếp làm mấy món điểm tâm kiểu Hiên
Viên cho nàng.
Hơn nửa tháng trời, hết lý do này tới nguyên nhân khác, Thiếu Hạo và A Hành vẫn chưa thực sự thành thân.
Mỗi lúc tối đến A Hành đều nơm nớp lo sợ, ngủ không an giấc, chẳng mấy chốc mà gầy rộc đi. Hàng ngày, để tránh né Thiếu Hạo, nàng toàn lấy cớ không hợp thủy thổ để lên giường ngủ thật sớm.
Từ khi bàn bạc chọn
ngày thành hôn tới nay đã tròn một tháng chưa được ngủ yên, A Hành mơ
màng thế nào lại ngủ thiếp đi. Lúc Thiếu Hạo bước vào phòng, đập vào mắt là cảnh tượng nửa ống tơ nằm lăn lóc trên sàn, mái tóc đen dài của A
Hành xõa xuống giường, y chỉ biết lắc đầu cười, nhẹ nhàng quấn lại tóc
cho A Hành đoạn giơ tay toan sửa chăn giùm nàng, nào ngờ vừa chạm tới
vai, A Hành đã giật mình tỉnh dậy, tiện tay rút dao găm dưới gối đâm y.
Vừa thấy hàn quang lấp loáng, mu bàn tay Thiếu Hạo đã bị rạch một đường,
máu chảy ròng ròng, A Hành co rúm trên giường, tay nắm chặt dao, mắt
không rời Thiếu Hạo, đôi mắt vừa to vừa sáng nổi bật trên gương mặt võ
vàng nhợt nhạt của nàng, càng lộ rõ vẻ tiều tụy.
Thiếu Hạo vừa
lấy khăn lau vết thương, vừa nói: “Bỏ dao xuống đi, nếu ta thật sự muốn
ép buộc thì con dao đó của nàng chẳng ăn thua gì đâu.”
“Không
phải thiếp muốn đả thương chàng, chỉ là, chỉ là…” A Hành không sao nói
tiếp được, đành quẳng dao xuống dưới chân Thiếu Hạo.
Cứ tiếp tục thế này cũng chẳng phải là cách, Thiếu Hạo quyết định nói cho rõ ràng,
bèn ngồi ghé xuống bên giường, “Hai ta đều biết mục đích thật sự của
cuộc hôn nhân này là gì, rất nhiều việc chúng ta không thể tự làm chủ
được. Mặc kệ phụ vương chúng ta nghĩ gì, cứ xuất phát từ lợi ích bản
thân của hai ta thôi nhé, nàng cần ta giúp đỡ, ta cũng cần nàng hỗ trợ,
chúng ta chẳng ai rời được ai cả. Bất kể trước đây nàng nghĩ thế nào,
bất kể giữa nàng với người đàn ông khác từng có những gì, bây giờ nàng
đã được gả cho ta, ta mong rằng từ nay về sau nàng có thể thật sự trở
thành Đại vương tử phi.”
“Là vương tử phi, hay là vợ của chàng?”
Thiếu Hạo ngớ người, “Có gì khác nhau sao?”
A Hành đáp: “Vợ tức là người phụ nữ duy nhất trong đời, như Viêm Đế với
Viêm Hậu vậy. Chàng có thể mãi mãi ở bên thiếp, sống chết có nhau, bất
kể được mất vinh nhục, sinh lão bệnh tử, thịnh suy chìm nổi cũng không
bao giờ rời xa, sẵn lòng tin tưởng, yêu thương trân trọng thiếp suốt đời chăng?”
Thiếu Hạo chẳng ngờ A Hành lại chất vấn mình như vậy,
vừa ngạc nhiên vừa kinh hãi, năm lần bảy lượt mở miệng mà chẳng sao hứa
hẹn được với nàng. Tuy Cao Tân và Hiên Viên hiện tại là đồng minh, nhưng tương lai thì sao? Giữa y và A Hành còn muôn dân hai nước, còn cả sinh
tử tồn vong của hai bên gia tộc, sao có thể không ngờ vực đề phòng đây?
Hồi lâu y mới cất tiếng hỏi: “Vậy vương tử phi thì sao?”
“Vương tử phi sẽ giống như Tuấn Hậu vậy, Tuấn Hậu cùng phụ vương chàng chia
ngọt sẻ bùi, lợi dụng lẫn nhau, đồng thời đề phòng lẫn nhau, đôi bên chỉ là đồng minh cùng chung lợi ích, bởi thế dù Tuấn Đế có bao nhiêu phi
tần, Tuấn Hậu cũng chẳng đau lòng, còn đích thân chọn ra những mỹ nữ hát hay múa dẻo để làm vui lòng Tuấn Đế. Tuấn Hậu xưa nay không hề coi Tuấn Đế là người chồng sống chết có nhau của mình, cũng chưa từng toàn tâm
toàn ý tin tưởng yêu thương Tuấn Đế. Còn chàng, chàng nói cần thiếp hỗ
trợ, thật ra là hỗ trợ gì đây? Giúp chàng lên ngôi ư?”
Thiếu Hạo chăm chú nhìn nàng A Hành lạ lẫm trước mặt mình, thật khó tin rằng cách đây không lâu nàng vẫn còn là một cô bé ngây thơ thuần phác dưới khung
trời đầy sao, “Thiếu Hạo, nếu chàng chỉ muốn một vị vương tử phi có thể
giúp chàng đăng cơ thì chúng ta kết thành liên minh đi, hai ta không làm vợ chồng, mà làm bạn bè.”
Thiếu Hạo trấn tĩnh nói, “Nàng giải thích rõ hơn đi.”
“Nhị vương tử Yến Long hành xử lịch thiệp, tài mạo phong lưu, đã chiêu mộ
được không ít nhân tài chí sĩ, cũng rất được lòng quan lại trong triều,
còn được rất nhiều huynh đệ khác dốc lòng ủng hộ, lại có mẹ ruột là Tuấn Hậu cai quản hậu cung, tuy mẹ chàng là vợ kết tóc xe tơ của Tuấn Đế
nhưng bà đã mất sau khi sinh chàng, chàng chẳng có thế lực gì ở hậu cung cả. Bên trong chàng phải đối mặt với hậu cung trùng trùng mưu toan, bên ngoài lại có đám huynh đệ như hổ đói rình rập, tự đáy lòng chàng cũng
biết phụ vương chàng có thể tạm thời tin cậy chàng, nhưng về lâu về dài
thì khó nói lắm. Để tự bảo vệ mình, chàng đành rong ruổi khắp nhân gian, gửi gắm tình cảm vào non xanh nước biếc. Mấy chục năm trước, nhân lúc
thiên hạ thái bình, chàng định chấn chỉnh quân đội đề phòng sau này có
biến nhưng Yến Long sợ chàng thừa cơ nắm lấy quân đội, bèn ra tay cản
trở hết lần này sang lần khác. Chàng tưởng mình sẽ được Tuấn Đế ủng hộ,
nào ngờ danh tiếng của chàng ở đại hoang quá tốt, khiến phụ vương chàng
cũng phải kiêng dè, bởi vậy chàng đành gắng gượng kiềm chế nhẫn nhịn. Có điều bọn Yến Long chẳng chịu buông tha, còn toan kết mối hôn nhân với
Nặc Nại nhằm thao túng Hy Hòa bộ đang nghiêng về phía chàng. Tuy chàng
ngầm giúp Nặc Nại hủy bỏ hôn ước nhưng Tuấn Đế vì thế từ yêu thích đổi
sang bất mãn với y, chàng cũng coi như đại tổn nguyên khí.”
Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com
Thiếu Hạo hỏi, “Những chuyện này Thanh Dương nói cho nàng biết ư?”
A Hành đáp: “Ai nói với thiếp không quan trọng, quan trọng là thiếp quả
thật có thể giúp chàng. Thiếp có thể làm một Đại vương tử phi hoàn mỹ,
mượn lực lượng của Hiên Viên tộc khiến bọn Yến Long không thể tranh đoạt vương vị với chàng nữa, sau này chàng có thể tùy ý điều động tướng sĩ
Cao Tân tới trấn giữ các nơi nhằm bảo vệ mảnh đất tươi đẹp này, bảo vệ
những con người cần cù lao động trên mảnh đất này.”
Thiếu Hạo
càng lúc càng thêm sửng sốt. Y chẳng lạ gì việc Hiên Viên Bạt nhìn thấu
những nguy cơ trùng trùng ẩn sau vầng hào quang rực rỡ của Đại vương tử
mà chỉ ngạc nhiên vì nàng biết được chí hướng của y. Trước kia y vốn xem nàng như em gái của Thanh Dương, cho rằng nàng chỉ là một thiếu nữ
thuần phác ngây thơ, quật cường sôi nổi, nhưng giờ đây y chợt nhận ra
mình đã nhìn lầm.
Thấy Thiếu Hạo chăm chú nhìn mình, A Hành ngỡ y không đồng ý bèn đột ngột thay đổi dung mạo, bắt chước giọng điệu của
y, “Ngắm sao trời phải đứng dưới mặt đất, còn ngắm sao trên mặt đất
đương nhiên phải bay lên trời! Xin hỏi công tử có bằng lòng cùng ta bảo
vệ bức họa đồ tiên cảnh nhân gian này chăng?”
“Nàng là Tây Lăng công tử ư?” Thiếu Hạo kinh ngạc đến nỗi nói chẳng nên lời.
A Hành gật đầu, “Chính phải, tại hạ đã nói chúng ta nhất định còn gặp lại kia mà.”
“Sau khi Viêm Đế qua đời, cả đại hoang đồn rằng Tây Lăng công tử là đệ tử
cuối cùng của Viêm Đế, nắm giữ Thần Nông bản thảo kinh, nàng có biết
khắp thiên hạ bây giờ có bao nhiêu thần tiên và yêu quái đang lùng sục
mình không hả?”
“Thiếp biết chứ, chính thiếp phao tin đó ra mà.
Vân Tang đã đau khổ lắm rồi, thiếp chẳng muốn bọn chúng tới quấy rầy tỷ
ấy nữa, vả lại đó cũng không phải lời đồn nhảm, Thần Nông bản thảo kinh
quả thực đang nằm trong tay thiếp.”
Thiếu Hạo ngạc nhiên buông
lời cảm thán, “Sao Viêm Đế lại giao Thần Nông bản thảo kinh cho nàng
chứ? Nàng là con gái Hiên Viên Hoàng Đế mà!” Có điều sự thật rành rành
trước mắt, y không tin cũng chẳng được.
“Bây giờ chàng có bằng lòng liên minh với thiếp hay không?”
Thiếu Hạo thận trọng hỏi: “Đã kết liên minh thì đôi bên cùng có lợi, điều kiện của nàng là gì đây?”
“Điều thứ nhất, chúng ta chung giường nhưng không…” A Hành cắn môi đưa mắt nhìn vết thương trên tay Thiếu Hạo.
Thiếu Hạo vốn chẳng phải kẻ háo sắc, y gượng cười đáp ngay: “Đồng ý, còn điều thứ hai?”
“Nếu một mai chàng trở thành Tuấn Đế, đừng phong thiếp làm vương hậu.”
Thiếu Hạo nhìn A Hành, “Đồng ý!”
“Thứ ba, sau khi chàng trở thành Tuấn Đế, xin chàng dùng uy quyền đế vương
ban cho thiếp được tự do lựa chọn một lần, để thiếp được tự mình quyết
định nên đi hay ở.” Đôi mắt A Hành long lanh lệ, từ khi sinh ra, nàng đã bị định sẵn rằng không thể tự mình lựa chọn, nhưng nàng vẫn muốn được
tự do quyết định một lần.
Đây là lần đầu Thiếu Hạo hiểu được
chút ít về con người A Hành, dường như có phần cảm động trước nàng, y
gật đầu trang trọng hứa, “Ta đồng ý!”
A Hành nghiêm trang chìa
tay cho y, “Từ nay về sau, chúng ta kết thành đồng minh đôi bên cùng có
lợi, muốn nghi kị, lợi dụng hay đề phòng lẫn nhau gì cũng chẳng sao,
miễn là tuân thủ đúng lời hứa!”
Thiếu Hạo lập tức hạ quyết tâm, “Được! Làm đồng minh, không làm vợ chồng!”
Y cùng A Hành đập tay ba lần, kết thành đồng minh.
A Hành như được giải thoát liền ngáp dài một cái, díp cả mắt vì buồn ngủ, “Cuối cùng thiếp cũng có thể yên tâm ngủ rồi.” Nàng nằm phịch xuống ngủ thiếp đi, chẳng bao lâu đã nghe tiếng ngáy khe khẽ.
Ánh trăng
vằng vặc bên ngoài len qua rèm lụa tràn vào phòng khiến mặt đất long
lanh như phủ một lớp sương ngà ngọc. Thiếu Hạo ngả mình nằm xuống, có lẽ sống trong cung đình Cao Tân, y đã quen lối nói vòng vo bóng gió, lâu
lắm mới thẳng thắn đối thoại thế này nên chẳng thấy buồn ngủ nữa. Y cứ
miên man nghĩ mãi câu nói khi nãy của A Hành: “Vợ tức là người phụ nữ
duy nhất trong đời, dù được mất vinh nhục, sinh lão bệnh tử, thịnh suy
chìm nổi cũng không bao giờ rời xa, sống chết có nhau, chàng làm được
chăng?” Vậy còn người chồng thì sao? Chồng cũng là người đàn ông duy
nhất trong đời của vợ, dù được mất vinh nhục, sinh lão bệnh tử, thịnh
suy chìm nổi, người vợ vẫn sẽ tin tưởng y, yêu y, không rời xa y, cùng
sống chết với y.
Thiếu Hạo bất chợt miên man nghĩ ngợi rồi bất
chợt phá lên cười. Y không cần vợ mà cần ngôi báu, người phụ nữ đứng bên ngôi báu cũng chẳng thể là vợ, bởi ngôi báu quá nhỏ hẹp, không chứa nổi hai người sánh vai đứng cạnh nhau.
Sáng hôm sau, Thiếu Hạo đánh thức A Hành, “Dậy đi, nàng có biết phụ vương của hai ta muốn thấy gì không?”
A Hành thoáng ngẩn ra, dụi mắt rồi gật đầu lia lịa.
Dưới sự hầu hạ của các thị nữ, hai người cùng trở dậy, A Hành tươi cười ngồi xuống trước đài trang chải tóc.
Thiếu Hạo ngồi ngay bên cạnh vừa đọc sách vừa chuyện phiếm với nàng.
Đợi đám thị nữ trang điểm chải chuốt cho A Hành xong, Thiếu Hạo liền ngắt một đóa hải đường trong sân cài lên búi tóc nàng.
A Hành thẹn thùng nói nhỏ: “Chàng đi giải quyết công việc đi thôi.”
Thiếu Hạo gật đầu nắm lấy tay nàng, ra đến cửa mới bịn rịn chia tay.
Đám thị nữ Hiên Viên và Cao Tân đều lén nhìn trộm hai người, mím môi cười vụng.
A Hành mỉm cười quan sát bọn họ, lòng thầm thở dài.
Bán Hạ bưng trà đặt trước mặt A Hành, ngập ngừng nhìn nàng như có điều muốn nói. A Hành biết Bán Hạ thực tế là thuộc hạ của Đại ca, cũng đoán được
cô ta định nói điều gì, bèn vờ như không thấy, cầm sách lên lật xem.
Tối hôm đó Thiếu Hạo về sớm dùng cơm với A Hành, sau bữa ăn lại cùng nhau
đi dạo trong vườn. A Hành vui miệng thổ lộ rằng mình yêu hoa, thích một
vườn hoa rộng thật rộng, hay nhất là quanh năm bốn mùa đều có hoa tươi.
Nào ngờ Thiếu Hạo lập tức gọi tùy tùng tới sai họ tìm ngay bản thiết kế
phủ đệ đưa đến phủ Nặc Nại, yêu cầu Nặc Nại thiết kế lại, kiến tạo một
vườn hoa thật rộng cho vương tử phi, để nàng mở cửa liền thấy hoa, đóng
cửa còn thơm ngát.
Xưa nay Thiếu Hạo vốn giản đơn tùy tiện, đây
là lần đầu y xa hoa phô trương như vậy, khó trách đám người trong vương
thất xì xầm không ngớt miệng.
Chẳng phụ tấm lòng Thiếu Hạo cùng
công sức thiết kế của Nặc Nại, A Hành đã chăm sóc cho cả khu vườn nức
tiếng xa gần, thêm vào đó, Tuấn Đế cũng ưa thích kì hoa dị thảo, cho
rằng có thể tu dưỡng tính tình nên hết thảy hậu cung phi tần, danh gia
vọng tộc đều đua nhau noi theo Tuấn Đế, vừa học phong nhã vừa lấy lòng
đế vương. Hay tin Đại vương tử phi giỏi trồng hoa xén cỏ, họ bèn nườm
nượp kéo tới học hỏi, thậm chí mấy phu nhân, tiểu thư bên Thường Hy bộ
vốn bất hòa với Thiếu Hạo cũng đến gõ cửa xin gặp.
Sau khi ăn
tối cùng nhau, Thiếu Hạo thường ngồi dưới đèn phê duyệt công văn các nơi gửi đến còn A Hành nghiêng mình nằm trên giường đọc sách y thuật. Mỗi
lúc hoàng hôn, bọn họ lại sánh vai ngồi bên cửa sổ, Thiếu Hạo gảy đàn, A Hành chăm chú lắng nghe. Hễ cao hứng cả hai còn hái phù dung trong vườn ủ thành rượu Phù Dung dâng lên Tuấn Hậu.
Thiếu Hạo thích ủ rượu còn A Hành giỏi bình rượu, nàng có thể chỉ rõ điểm khác nhau giữa các
loại rượu mà người khác không tài nào phân biệt được. Bát vương tử Quý
Ly cũng vô cùng mê rượu, có lần Quý Ly bày tiệc tại phủ, cố ý để lẫn
rượu Thiếu Hạo cất bao năm nay vào giữa đám rượu ngon thu thập khắp nơi
trên đại hoang rồi mời Đại vương tử phi bình phẩm nhằm làm khó hai
người, nào ngờ A Hành bịt mắt lại vẫn vạch rõ lai lịch từng loại một,
đáng kinh ngạc hơn là nàng còn chỉ ra khuyết điểm trong từng loại rượu
mà Thiếu Hạo ủ nên, khiến Thiếu Hạo xưa nay vẫn ung dung trấn tĩnh phải
ngạc nhiên ra mặt,Quý Ly lại càng phục sát đất, mọi người cũng không
ngớt trầm trồ.
Trong mắt mọi người ở Cao Tân, Thiếu Hạo và Hiên
Viên Bạt quả là một đôi giai ngẫu trời sinh, ngay Yến Long cũng phải ao
ước, “Những thứ khác chẳng nói làm gì, có điều vận số Đại ca may quá,
toàn vơ được chuyện hay ho, vốn chỉ là hôn nhân chính trị giữa hai vương tộc, không lạnh nhạt thờ ơ với nhau đã là giỏi lắm rồi, vậy mà y lại
tìm được kẻ tâm đầu ý hợp nữa chứ.”
Có lần quần thần nghị sự
trong đại điện đến tối muộn, Tuấn Đế vừa lệnh cho mọi người giải tán,
Thiếu Hạo đã xăm xăm bước ra cửa, Tuấn Đế gọi y, y cũng chẳng nghe thấy, mãi tới khi bị thị vệ gọi lại y mới giật mình hoảng hốt, Tuấn Đế bèn
hỏi: “Con mải nghĩ gì thế?”
Thiếu Hạo khẽ thưa: “Mấy hôm trước A Hành làm món dưa muối như ở quê nàng, hôm nay bắt đầu mở vại dưa. Ban
sáng trước khi đi con đã dặn nàng chờ con về rồi cùng ăn, nào ngờ hôm
nay nghị sự muộn thế này, e rằng nàng đợi cơm lại đói.”
Tuấn Đế
không lấy thế làm điều, trái lại còn bật cười nói với chúng thần: “Các
người xem, khi trước thằng bé này chẳng bao giờ sai sót mảy may nào, từ
hồi lấy vợ mới bắt đầu có điểm giống người thường.”
Cả triều
đình rộ lên cười, mọi người còn truyền tai nhau như câu chuyện vui, từ
đó, Thiếu Hạo nổi tiếng khắp nơi trong triều ngoài nội là yêu vợ, cả đại hoang đều biết Thiếu Hạo cùng Hiên Viên Bạt ân ái mặn nồng.
Những chuyện rủ rỉ phòng khuê đó truyền đến Thần Nông đương nhiên Xi Vưu đều
nghe không sót một lời, từng câu từng chữ như từng lưỡi kiếm nhọn hoắt
rạch vào tim hắn, máu chảy đầm đìa. A Hành vốn chỉ định đóng kịch nhằm
qua mặt phụ vương tinh minh của mình, nào ngờ những điều vụn vặt đó lại
làm Xi Vưu tổn thương sâu sắc, khoét sâu thêm hiểu lầm giữa hai người.