Vừa đi vừa thấp thỏm, sau cùng Tây Lăng Hành dừng bước, ngoảnh sang phải rồi ngoảnh sang trái, thấy chẳng có ai cả, nàng vừa thở phào nhẹ nhõm,
tươi cười quay đầu lại, lập tức trợn tròn mắt lên.
Xi Vưu đang
đứng ngay đằng trước, vẻ mặt bực bội, nghển đầu nhìn về phía sau nàng,
dường như không hiểu sao nàng lại lén lén lút lút thế này. Hắn ghé tai
Tây Lăng Hành căng thẳng hỏi: “Sao thế? Có tên vô lại nào bám đuôi chúng ta ư?”
Một tháng sau, bên bến sông Mân.
Cỏ biếc
lưa thưa, hạnh hoa đọng tuyết, vầng tịch dương đỏ ối chênh chếch rọi mặt sông, ráng hồng chiếu xuống khiến nửa dòng sông đỏ rực, nửa kia lại
biếc xanh. Giữa dòng tấp nập thuyền bè qua lại, một chiếc thuyền đậu bên bến sông.
Nhà thuyền hô lớn, chống sào chuẩn bị rời bến.
“Đợi đã! Nhà thuyền đợi đã! Cứu mạng cứu mạng!” Thiếu nữ áo xanh vừa chạy vừa thét.
Nhà thuyền đang chần chừ chẳng biết nên dừng hay không thì lại thấy một nam tử áo đỏ đuổi sát sau lưng thiếu nữ, hung hăng quát: “Đứng lại, cô đứng lại đó cho ta!”
Nhà thuyền lắc đầu than thở, đúng là phong hóa suy đồi, thói đời hiểm ác mà!
Y chậm tay chèo chốc lát đợi thiếu nữ áo xanh nhảy lên rồi lập tức ra sức khua chèo, đẩy thuyền lướt đi băng băng. Nào ngờ nam tử kia đã đuổi kịp vào phút chót, vừa hay nhảy được xuống thuyền.
Thiếu nữ áo xanh hốt hoảng, vội cố sức trốn vào giữa đám người.
Nam tử áo đỏ túm chặt lấy cô, “Ta xem cô còn trốn đi đâu?”
Nhà thuyền lặng lẽ nắm lấy con dao chặt củi giấu dưới sàn thuyền.
“Tây Lăng cô nương, ơn cứu mạng thật không có gì đền đáp, để ta lấy thân trả ân đi mà.” Nam tử áo đỏ có vẻ rất thành khẩn, trong khi thiếu nữ kia
mặt ủ mày chau, con dao của nhà thuyền cũng khựng lại giữa chừng.
Nam tử áo đỏ ngoảnh lại trừng mắt nhìn nhà thuyền, “Ngươi cầm dao làm gì
đó, có phải chúng ta định quỵt tiền đâu?” Nói đoạn hắn quăng một nắm
tiền vỏ sò vào lòng y.
Thiếu nữ áo xanh đang định lẩn đi thì bị
hắn kéo lại, “Xuống thuyền chúng ta sẽ tìm một quán trọ nghỉ ngơi rồi
bàn tính chuyện chung thân đại sự.”
Thiếu nữ áo xanh dường như chán chẳng buồn phản đối nữa, chỉ ôm lấy tay nải ngồi phịch xuống.
Gã trai vẫn ngồi chồm hỗm bên cạnh nàng thao thao bất tuyệt: “Cô xem, ta
dung mạo anh tuấn, gia tư giàu có, linh lực cao cường, đúng là ngàn
người chọn một đó nha…”
Người trên thuyền đều đổ dồn mắt vào
hắn, nhìn từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên, nhưng vẫn không sao
kết nối được kẻ đang ngồi trước mặt mình với hình ảnh hoa mỹ kia.
“Hơn nữa chúng ta ôm ấp cũng ôm ấp rồi, ở ngoài đồng hoang cô còn tựa lưng vào lòng ta, thân thể dán sát lấy nhau…”
Người trên thuyền lại dồn mắt về phía thiếu nữ áo xanh tỏ vẻ khinh miệt, hèn
chi tên lưu manh kia tìm đến nàng, hóa ra nàng ta cũng thuộc phường sa
đọa.
“Là ngươi áp ngực vào lưng ta, đâu phải ta tựa lưng vào lòng ngươi!” Thiếu nữ tái mặt quát.
Có khác gì nhau đâu? Người trên thuyền càng khinh bỉ nàng hơn.
“Là hắn bị thương nên tôi mới cõng…” Trước ánh mắt kỳ thị của mọi người,
thiếu nữ áo xanh lí nhí phân bua, nghe như tiếng muỗi vo ve, rồi chẳng
dám nhìn mặt đám người kia nữa, nàng đành ngẩng lên lặng lẽ hỏi trời
xanh.
Thuyền đi chặng nào, nam tử áo đỏ kia lại thao thao chặng nấy, còn chưa cập bến thiếu nữ áo xanh đã nhảy tót lên bờ chạy mất.
Nam tử áo đỏ ngoảnh đầu nhìn về phía cuối trời như muốn xác định gì đó, chỉ trong nháy mắt, hắn cũng nhảy lên bờ đuổi theo thiếu nữ áo xanh, “Đứng
lại! Đứng lại! Cô đứng lại cho ta!”
Nhà thuyền lắc đầu than thở, đúng là phong hóa suy đồi, phong hóa suy đồi mà!
Thiếu nữ thở hổn hển chạy vào quán trọ, vừa ngồi xuống đã thấy hắn chạy ào vào theo, ngồi đối diện với nàng.
Nàng liền hung hăng gọi đầy một bàn đồ ăn rồi chỉ nam tử áo đỏ bảo tiểu nhị: “Ta không có tiền đâu, cứ để hắn trả.” Lại ấn cốc nước vào tay hắn,
“Ngươi nói suốt ngày chắc cũng khô cổ rồi, uống nước đi.”
Thiếu nữ áo xanh là Tây Lăng Hành, nam tử áo đỏ đương nhiên là gã lưu manh Xi Vưu mà nàng đụng phải gần Bác Phụ quốc.
Tây Lăng Hành dập tắt lửa cho Bác Phụ quốc rồi nhân nửa đêm chuồn thẳng,
nào ngờ sẩm tối hôm sau lại gặp Xi Vưu, hắn cảm tạ ân đức của nàng, rồi
nàng đã cứu hắn, cứu ca ca hắn, cứu đệ đệ hắn, cứu cháu hắn, cứu con chó của cháu hắn, cứu luôn cả chú chuột mà con chó đó chưa kịp vồ… Tóm lại
là đã cứu cả nhà hắn, cứu cả Bác Phụ quốc, bởi vậy kẻ làm nam nhi như
hắn phải báo ơn, vừa khéo đôi bên đã đụng chạm da thịt với nhau, lại vô
cùng ăn ý, hắn đành hy sinh bản thân, lấy thân báo đáp thôi.
Thoạt đầu Tây Lăng Hành chỉ coi chuyện đó như trò cười, nhưng bị hắn đuổi
riết suốt một tháng trời, nàng mới hiểu ra đây chẳng phải trò đùa mà là
quyết định cố chấp của kẻ điên.
Nốc cạn một cốc nước đầy, Xi Vưu đang định cất tiếng thì Tây Lăng Hành đã nhanh tay nhét luôn cái đùi gà vào miệng hắn, “Oa! Chúng ta ăn cơm trước rồi bàn bạc chuyện ngươi lấy
thân báo đáp sau nhé!”
Cả quán trọ nhốn nháo chợt lặng phắc như tờ, mọi ánh mắt dồn về phía hai người, tìm kẻ thốt ra câu đó.
Tây Lăng Hành cũng bắt chước mọi người nhìn ngang ngó dọc, vờ như không phải mình nói ra.
Mọi người liếc qua hai bọn họ rồi lại quay sang tiếp tục nói về chuyện hạn
hán. Bỗng hai chữ “Thiếu Hạo” lọt vào tai Tây Lăng Hành, nàng liền dỏng
tai lắng nghe.
Năm nay trời làm đại hạn, thiệt hại nặng nhất là
vùng giáp ranh giữa Thần Nông và Cao Tân, đám nạn dân cùng đường họp
nhau dậy loạn, dám giết hại cả Thần tộc khiến Tuấn Đế nổi giân, Đại
vương tử Thiếu Hạo bèn chủ động xin đi trấn áp loạn dân.
Thiếu
Hạo vốn đã vang danh thiên hạ từ một ngàn tám trăm năm trước. Nghe nói
năm đó y một thân bạch y, một thanh trường kiếm, bức mười vạn quân Thần
Nông quốc dưới chân thành phải thoái lui, phong thái hào hoa khiến anh
hùng thiên hạ đều nghiêng mình kính nể, nhưng y tựa như vệt sao băng
lướt qua trời, vừa thành danh đã tuyệt tích, hơn ngàn năm nay chưa từng
xuất hiện giữa nhân gian.
Suốt ngàn năm nay, Thiếu Hạo đã trở
thành một truyền thuyết. Nghe nói y thích ủ rượu gảy đàn, rượu y ủ có
thể khiến kẻ sống quên sầu, người chết ngậm cười, đàn y gảy có thể khiến xuân về khắp chốn, muôn hoa đua nở. Thiếu Hạo còn thích nghề rèn, Cao
Tân tộc vốn là Thần tộc chuyên chế tạo binh khí, phần lớn binh khí trên
đời đều do thợ rèn trong tộc làm ra, mà thợ rèn giỏi nhất Cao Tân tộc
chính là Thiếu Hạo, y thần lực cao cường, mỗi binh khí tạo ra đều là
tuyệt thế thần binh, nhưng chẳng hiểu sao hễ thứ gì vừa ra lò, y liền
tiêu hủy ngay lập tức, bởi vậy đến giờ cũng chưa ai được thấy binh khí
do Thiếu Hạo chế ra, có điều Thần tộc vẫn tin chắc rằng Thiếu Hạo chính
là tay thợ rèn ưu tú nhất.
Nhìn phục sức có lẽ kẻ đang nói là
người Cao Tân, giọng điệu đầy vẻ sùng kính Thiếu Hạo, y hào hứng kể lể
mà quên rằng nơi này dù sao cũng nằm trong biên giới Thần Nông quốc, khó tránh nhiều người Thần Nông thấy chướng tai, buông lời chế giễu: “Toàn
nói láo!”
Như hòn sỏi ném xuống mặt hồ làm gợn lên ngàn đợt
sóng, đám dân Thần Nông trong quán nhao nhao cả lên, mồm năm miệng mười
gièm pha Thiếu Hạo, lúc thì nói chưa từng nghe Thần Nông phải đại quân
tiến đánh Cao Tân, một mình Thiếu Hạo đời nào bức lui được mười vạn quân chúng ta, rõ ràng là người Cao Tân thổi phồng, lúc lại nói Thiếu Hạo
sao bì nổi Chúc Dung, e rằng gặp phải Hỏa thần lại rối rít xin tha.
“Bọn Cao Tân rõ nực cười! Nếu Thiếu Hạo lợi hại thế, sao chẳng thấy y đến dự tiệc Bàn Đào của Vương Mẫu? Trừ cuộc chiến không biết là thật hay giả
kia, y đã thắng được vị anh hùng nổi danh nào trên đại hoang đâu? Hỏa
thần của chúng ta đã thắng liền cả trăm bữa tiệc Bàn Đào, đánh bại vô số cao thủ rồi đó!”
“Ta thấy Thiếu Hạo chắc chắn không dám gặp Chúc Dung. Còn xưng anh hùng gì chứ, chẳng qua là đồ cẩu hùng gan bé như chuột!”
“Chính thế, chính thế! Thợ rèn giỏi nhất cái nỗi gì, e rằng nhác thấy Chúc Dung đã quỳ gối xin tha mạng rồi!”
Thấy mọi người càng nói càng chướng tai, tay Lây Lăng Hành chợt run bắn lên
làm rơi chiếc bát xuống đất vỡ choang, bấy giờ ai nấy mới nín lặng
ngoảnh lại nhìn.
Tay Tây Lăng Hành vừa luống cuống lau vết bẩn
bắn lên quần, vừa cười hỏi một thiếu niên Thần Nông tộc lên tiếng khi
nãy: “Ngươi đã thấy binh khí Thiếu Hạo rèn chưa?”
“Dĩ nhiên chưa rồi!”
“Chưa nhìn thấy sao biết được y không phải thợ rèn giỏi nhất? Sao lại nói y gan bé như chuột, không phải đối thủ của Chúc Dung?”
Thiếu niên khinh khỉnh hỏi lại: “Thế cô thấy rồi à?”
Tây Lăng Hành vênh mặt: “Ta dĩ nhiên…” Bỗng nàng khựng lại một thoáng rồi hạ giọng, “Dĩ nhiên cũng chưa rồi!”
Thiếu niên thoáng cười nhạt, “Cô cũng chưa thấy thì dựa vào cái gì mà nói y
là thợ rèn giỏi nhất? Làm sao biết y không phải gan bé như chuột, khiếp
sợ Chúc Dung?”
Đám người trong quán đều cười rộ lên phụ họa.
Tây Lăng Hành cắn môi làm thinh.
Đột nhiên, một giọng già nua cất lên: “Truyền thuyết có lẽ không hoàn toàn
là thực, nhưng dân chúng đại hoang này cũng chưa đến nỗi nói không thành có để tán dương Thiếu Hạo đâu.”
Mọi người nghe tiếng đều nhìn
về góc quán, liền thấy một lão già để râu dê, lưng đeo cây tam huyền
cầm, nét mặt khắc khổ, lão đứng dậy khom lưng với Tây Lăng Hành cùng Xi
Vưu.
Té ra là lão già từng gặp trong Bác Phụ thành, Tây Lăng Hành bèn gật đầu đáp lễ còn Xi Vưu chỉ khoanh tay cười.
Thiếu niên quát lớn: “Lão già kia, mau qua đây nói cho rõ ràng, nếu có nửa lời mập mờ thì đừng trách chúng ta vô lễ!”
Lão già bước ra giữa sảnh thản nhiên ngồi xuống rồi vừa gảy đàn vừa nói:
“Tuy vùng đại hoang vẫn có câu: ‘một núi, hai bước, ba vương tộc, bốn
thế gia’ nhưng giờ đây thiên hạ chia ba. Thần Nông, Cao Tân, Hiên Viên
thành thế chân vạc, bởi thế những kẻ rỗi hơi đi phân chia ngôi thứ cao
thủ Thần tộc cũng chỉ nhắc tới con cháu của ba vương tộc mà thôi…”
Đám người trong quán đều chăm chú lắng nghe, chỉ mình Xi Vưu vừa ngấu
nghiến gặm đùi gà vừa giơ bàn tay bóng nhẫy mỡ túm lấy Tây Lăng Hành
hỏi: “Cái gì mà một hai ba bốn, lão nói lung tung gì thế?”
Mọi
người đều trừng mắt nhìn hắn, lão già cười đáp: “Câu đó đề cập tới mấy
thế lực lớn trong Thần tộc, ai nấy đều biết ba vương tộc là Thần Nông,
Cao Tân, Hiên Viên; một núi ý chỉ Ngọc sơn còn hai nước là Hoa Tư và
Lương Chử; bốn thế gia là Xích Thủy, Tây Lăng, Quỷ Phương, Đồ Sơn. Luận
về lai lịch, một núi, hai nước, bốn thế gia còn lâu đời hơn cả ba vương
tộc, có điều Ngọc sơn đã xuất thế, Hoa Tư và Lương Chử tuyệt mù tăm
tích, các thế gia thì đều chỉ chăm chăm lo giữ thân nên đám phàm phu tục tử chúng ta dần quên lãng đó thôi.”
Xi Vưu gật đầu, đang định
hỏi tiếp thì Tây Lăng Hành đã giữ lấy tay gã, ghé tai nói nhỏ: “Mấy
chuyện này muốn kể rõ phải mất mấy ngày đêm, cứ nghe xem lão nói gì đã.”
Xi Vưu liền chơi ác, miết tay lên tay Tây Lăng Hành khiến tay nàng dính
đầy mỡ, Tây Lăng Hành hậm hực cau mày bĩu môi trừng mắt nhìn thủ phạm,
đột nhiên nàng nhoẻn cười tinh quái, bôi luôn bàn tay bóng nhẫy vào tay
áo hắn.
Lòng bỗng xao động, hắn hạ giọng hỏi: “Vợ yêu, hình như
cô có nhiều bí mật lắm thì phải, cô họ Tây Lăng, có quan hệ gì với Tây
Lăng thế gia không thế?”
“Coi như có chút đi, ta có quan hệ
huyết thống với họ nhưng không phải chi chính nên mới bị ngươi ức hiếp
phải bỏ chạy đấy thôi!” A Hành cốc đầu hắn rồi ra dấu im lặng, tỏ ý bảo
hắn đừng làm ồn, nghe xem lão kia nói gì.
“… Thời trẻ Thiếu Hạo
rất mê rèn sắt, thường trà trộn vào những lò rèn dân gian học lén tay
nghề của người ta. Nhưng nghề rèn không phải cứ quan sát là học được, mà phải trải qua trăm tu ngàn luyện mới thành. Thiếu Hạo liền lui về quê
mở một lò rèn, chuyên làm cày cuốc cho nông dân, nồi niêu xoong chảo cho phụ nữ, vì sản phẩm rất tốt nên dân chúng bảy thôn tám xã xung quanh
đều kéo tới lò của y. Suốt mấy năm làm thợ rèn, những người tới nhờ y
sửa sang lại nông cụ chẳng ai biết y là Thiếu Hạo, mãi tới khi Tuấn Đế
đời thứ sáu lâm bệnh nặng, Thần Nông thừa dịp dấy binh áp sát, Cao Tân
nháo nhào đi tìm kiếm một lò rèn thì bà con quanh đó mới hay. Thần tộc
Cao Tân hay kể chuyện Thiếu Hạo cởi áo ngắn, quăng thiết chùy, khoác
vương bào, cầm trường kiếm một mình bức lui mười vạn đại quân Thần Nông, nhưng trăm họ Cao Tân lại thích thuật chuyện Thiếu Hạo rèn sắt hơn.
Lão già râu dê hớp một ngụm nước rồi hắng giọng kể tiếp: “Có lẽ vì thân
phận đã lộ nên Thiếu Hạo không quay lại vùng quê đó nữa, nhưng nơi ấy
sau cũng đổi tên thành Thiết Tượng Phô[1], một là để tưởng nhớ chàng thợ rèn Thiếu Hạo, hai là bởi lúc còn ở đó, mỗi khi có người tới xin học
nghề rèn, y đều tận tâm chỉ dạy, khiến trong vùng nổi lên rất nhiều thợ
rèn kỹ nghệ phi phàm, lò rèn mọc lên san sát, đám quý tộc Nhân tộc hay
tới đó sắm vũ khí tùy thân để thể hiện địa vị, nhìn binh khí mấy vị tiểu ca ngồi đây mang theo người có vẻ bất phàm, e rằng cũng từ Thiết Tượng
Phô mà ra.”
[1] Lò rèn. (ND)
Mấy gã thiếu niên sững
người, bất giác đặt tay lên bội kiếm mà mình vẫn lấy làm tự hào. Lão già mỉm cười: “Cao Tân quốc trọng lễ nghĩa, phân chia đẳng cấp giàu nghèo
rất rạch ròi, vậy mà Thiếu Hạo thân là vương tử tôn quý lại đi rèn nông
cụ cho dân, còn tận tâm chỉ bảo những kẻ ham học hỏi. Hơn ngàn năm nay
có vẻ như y lánh đời ở ẩn nhưng khắp Cao Tân nơi nào cũng có những
truyền thuyết về việc y diệt ác trừ yêu, cứu khổ giúp yếu. Lần này việc
trấn áp bạo dân rất tốn sức, lại chẳng được lợi lộc gì, các thần tiên
khác tránh còn không kịp, vậy mà Thiếu Hạo chủ động xin đi, đủ thấy y
nhất định không phải kẻ hèn nhát sợ sệt. Lão đây thấy mấy vị tiểu ca ăn
mặc như sắp đi xa, những lời vừa nãy nói trên lãnh thổ Thần Nông thì
chẳng sao, nhưng ngàn vạn lần đừng tức giận mà nói càn ở Cao Tân, muôn
dân ở đó vô cùng kính trọng Thiếu Hạo, e rằng sẽ kích động dân chúng
đó.”
Thấy mấy gã thiếu niên Thần Nông sa sầm mặt, lão già lại
chuyển chủ đề: “Nói đến hạn hán chẳng thể không ca ngợi Đại vương cơ[2]
Vân Tang của Thần Nông. Thần Nông và Cao Tân đều bị hạn hán nghiêm trọng nhưng vương cơ luôn thương xót muôn dân, dốc sức vì bách tính nên đến
giờ Thần Nông chỉ phải chịu thiên tai chứ chẳng có nhân họa. Còn Cao Tân và Trung Dung vương tử không gánh vác nổi, dân chúng nổi loạn khiến các quan lại Thần tộc địa phương bị đánh chết, may giờ có Thiếu Hạo chủ
động xin đi dẹp loạn, bằng không e rằng nhân họa còn dữ dội hơn thiên
tai nữa kìa.”
[2] Vương cơ: Trước thời nhà Chu, con gái của đế
vương và chư hầu đều gọi là vương cơ, từ thời nhà Chu trở đi, con gái
thiên tử dần dần đổi sang gọi là công chúa, con gái của chư hầu hoặc
thân vương gọi là quận chúa. (ND)
Bấy giờ vẻ mặt đám thiếu niên
Thần Nông mới giãn ra, họ tránh không nhắc tới Thiếu Hạo nữa, chỉ nhao
nhao tán dương Vân Tang lên tận mây xanh.
Tây Lăng Hành cúi đầu, chẳng hiểu đang nghĩ gì, vẻ mặt nửa mừng nửa lo.
Xi Vưu cũng có vẻ ngẩn ngơ, đột nhiên cau mày đứng dậy bước ra ngoài, đứng giữa đồng hoang nghiêng tai nghe ngóng.
Để trốn tránh Xi Vưu, Tây Lăng Hành đã phải thay đổi hành trình hết lần
này sang lần khác, cũng hết lần này sang lần khác vô tình tránh khỏi
Chúc Dung, nhưng lần này, dường như Chúc Dung đã nhận ra điều gì đó nên
tìm thấy hành tung bọn họ rất nhanh, chắc hẳn không thể đánh bài chuồn
được nữa, phải tính cách khác thôi.
Thấy Xi Vưu quay lại, Tây Lăng Hành liền hỏi: “Ngươi ra ngoài làm gì đó?”
Xi Vưu cợt nhả cười đáp: “Ta sực nhớ ra chuyện chung thân đại sự còn phải
hỏi ý kiến cha mẹ nên vừa nãy đi nhờ người đưa tin về nhà, mời cha mẹ
tới gặp cô.”
Tây Lăng Hành vừa hớp một ngụm canh nóng, nghe hắn
nói liền mắc nghẹn, suýt nữa chết sặc. Nàng yếu ớt chỉ mặt Xi Vưu, giận
đến nỗi không thốt nên lời.
Ăn xong bữa, hai người bèn chọn hai gian phòng sát vách nghỉ tạm.
Đêm xuống, Tây Lăng Hành nằm trên giường trằn trọc hoài không ngủ nổi,
trong đầu cứ lởn vởn câu chuyện Cao Tân Thiếu Hạo xin đi dẹp loạn vừa
nghe kể. Lại nghĩ tới gã khùng Xi Vưu, nàng rùng cả mình, quyết định bỏ
đi ngay lập tức, lần này nàng muốn đi về hướng Đông, xem xem Cao Tân
Thiếu Hạo mà mình đã nghe danh từ nhỏ đến lớn rốt cuộc ra sao.
Nàng quyết định khởi hành ngay giữa đêm để cắt đuôi Xi Vưu.
Lựa lúc đêm khuya người vắng, Tây Lăng Hành bèn khoác tay nải rón rén rời khỏi quán trọ.
Vừa đi vừa thấp thỏm, sau cùng Tây Lăng Hành dừng bước, ngoảnh sang phải
rồi ngoảnh sang
trái, thấy chẳng có ai cả, nàng vừa thở phào nhẹ nhõm,
tươi cười quay đầu lại lập tức trợn tròn mắt lên.
Xi Vưu đang
đứng ngay trước mắt, vẻ mặt bực bội, nghển đầu nhìn về phía sau nàng,
dường như không hiểu sao nàng lại lén lén lút lút như thế. Hắn ghé tai
Tây Lăng Hành căng thẳng hỏi: “Sao thế? Có tên vô lại nào bám đuôi chúng ta ư?”
Tây Lăng Hành hít sâu một hơi, lấy tay che mặt rồi cắm
cúi cất bước, chẳng buồn liếc Xi Vưu, chỉ sợ mình không nhịn được sẽ
giết luôn tên vô lại này.
Xi Vưu lẵng nhẵng bám theo sau thở vắn than dài: “Có một chuyện thực hổ thẹn, vừa nãy ta nhận được tin bề trên trong nhà sai đi làm chút việc, e rằng phải xa cô mấy ngày rồi.”
Tây Lăng Hành lập tức bỏ ngay tay xuống, cười tươi rói: “Không sao không
sao, nam tử hán đại trượng phu chí ở tứ hải, lòng theo ngũ hổ, công
truyền thiên thu, đức lưu vạn tuế, chết để tiếng thơm, xả thân vì nghĩa… khụ… nói tóm lại là phải đặt đại sự làm trọng!”
Nét cười thoảng qua mắt Xi Vưu nhưng hắn vẫn làm bộ nhăn nhó: “Có điều ta nghĩ đi nghĩ
lại thấy đi lo việc cũng quan trọng, mà báo ơn cũng rất quan trọng…”
Tây Lăng Hành liền tỏ vẻ buồn bã vỗ vai hắn: “Thật ra ta cũng chẳng nỡ xa ngươi, có điều phải đặt đại sự làm trọng!”
Xi Vưu rưng rưng cảm động, bèn nắm chặt tay nàng, “A Hành, thấy cô quyến luyến thế này, có lẽ ta sẽ ở lại!”
Khóe mắt bờ môi Tây Lăng Hành cùng lúc giật giật, “Ngươi sẽ ở lại thật chứ?”
“Sẽ ở lại thật đó!”
“Thật chứ?”
“Thật mà! Vì Tây Lăng Hành cô nương, ta tình nguyện…”
Tây Lăng Hành thình lình vung tay đấm bộp vào mặt Xi Vưu khiễn gã ngã lăn ra ngất xỉu.
Nàng ngồi xuống đắc ý vỗ vỗ má hắn, cười nhạt: “Tiểu tử thối! Chúng ta không hẹn ngày gặp lại!”
Khoác tay nải lên, nàng thấy cả người lâng lâng phơi phới, nhưng vừa tung
tăng đi được một đoạn, nàng càng nghĩ càng thêm sợ, lỡ có kẻ xấu đi
ngang qua thì sao? Lỡ thú dữ chạy tới thì thế nào? Lỡ…
Cuối cùng Tây Lăng Hành đành cuống cuồng chạy trở lại, nhưng gã Xi Vưu hôn mê nằm đó đã biến mất.
Nàng hoảng hốt dáo dác nhìn quanh tìm kiếm, nhưng vừa ngẩng đầu lên đã trông thấy một hàng chữ viết trên cây.
“Vợ yêu, chúng ta sắp gặp nhau rồi!” Cạnh đó còn vẽ một tên tiểu nhân áo đỏ đang cười toe toét.
Tây Lăng Hành nổi giận vung chân đá tên tiểu nhân kia một cái, lập tức kêu
thét “ai da”, đau đến nỗi nghiến răng nghiến lợi, ôm chân nhảy lò cò.
Hai ngày sau, nàng bước vào địa giới Cao Tân quốc.
Sông ngòi cạn khô, đất đai cằn cỗi, xác chết đầy đồng, cảnh tượng nhuốm màu
âm u. Tây Lăng Hành buồn bã ủ ê nhưng chẳng làm sao được bởi đây không
phải nhân họa mà là thiên kiếp, dù là thần tiên cũng chẳng thể trái ý
trời.
Không muốn nhìn cảnh tượng thê thảm đó thêm nữa, nàng bèn
tránh những con đường lớn đông người tụ tập, cứ lựa rừng sâu núi thẳm mà đi.
Đi suốt một ngày, đang định kiếm nơi nghỉ chân, bỗng nàng
nghe thấy tiếng trống thình thình đầy phấn khích. Lần theo tiếng trống
mà đi, nàng lại nghe thấy giọng ca thánh thót cùng tiếng hoan hô của đám đông.
Tây Lăng Hành không khỏi mỉm cười rảo bước thật nhanh,
nhưng khi bước vào ngôi làng cổ kính đó, nàng chẳng thấy cảnh tượng gì
vui vẻ mà trái lại là sự tàn nhẫn khiến người ta kinh sợ.
Hai
thiếu nữ trang điểm lộng lẫy nằm dài trên đàn tế, một cô bị mổ phanh
bụng, đã tắt thở, thầy tế mang mặt nạ tay cầm chủy thủ đầm đìa máu, tay
bưng trái tim còn phập phồng, vừa hát vừa múa, thiếu nữ kia nhắm nghiền
hai mắt, khóe môi mấp máy liên tục, chẳng hiểu đang ca hát hay cầu
nguyện.
Tây Lăng Hành từng nghe kể về những bộ tộc hiến tế cả
người để cầu trời đất phù hộ. Đó là phong tục địa phương, nàng không sao thay đổi được, nhưng nàng cũng chẳng thể trơ mắt nhìn một thiếu nữ tươi tắn như hoa chết thảm ngay trước mặt mình.
Tây Lăng Hành vận
linh lực nhổ bật vô số gốc cây khiến đám người quanh đài tế nháo nhác lo tránh né, rồi thừa cơ xông tới cứu luôn thiếu nữ trên đài bỏ chạy.
Nàng thiếu nữ đó tên Sách Mã, là cô gái thông minh nhất trong tộc nên bị chọn làm vật tế trước trận chiến để cầu thắng lợi.
Tây Lăng Hành hỏi: “Các người muốn chống lại quân đội do Thiếu Hạo thống lĩnh sao?”
Sách Mã đáp: “Tôi đâu biết mấy gã Thần tộc đó, tôi chỉ biết chúng giúp bọn
quý tộc hà hiếp chúng tôi, chặn đứng mạch sông khiến chúng tôi mất nguồn nước uống, đều là đồ vô lại.”
Tây Lăng Hành gắng bênh vực Thiếu Hạo: “Vị thần đến đây lần này không giống bọn trước kia, y nhất định sẽ nghĩ cách giúp các người điều hòa lại nguồn nước chứ chẳng thiên vị đám quý tộc đâu, các người khỏi phải liều mạng kháng cự.”
Sách Mã
trầm ngâm hồi lâu, đoạn cười nói: “Cô là thần tiên tốt, tôi tin cô! Đợi
trời tối tôi sẽ lén về nhà nói với cha. Hảo tỷ tỷ, tôi thấy cô có thể
sai khiến cây cô, cô tu luyện mộc linh ư?”
Tây Lăng Hành gật đầu.
Thấy trời sắp tối, Sách Mã liền vào rừng nhặt cành khô, rau dại về làm bữa
tối cho Tây Lăng Hành. Nàng bảo cô ta đừng bày vẽ, nhưng Sách Mã đáp:
“Cô cứu tôi mà tôi chẳng có gì báo đáp, đây là cách duy nhất tôi có thể
làm để tạ ơn cô, bất kể cô ăn hay không tôi cũng phải làm.”
Sách Mã dùng mảnh đá lõm làm nồi, nấu một nồi canh rau rừng lạ miệng rồi
đong đầy canh vào hai ống trúc, tự uống trước nửa ống, sau đó mới ngẩng
lên nhìn Tây Lăng Hành, có vẻ nài nỉ.
Tây Lăng Hành chẳng nỡ từ chối, bèn cùng uống với cô.
Uống hết canh, nàng bỗng thấy đầu váng mắt hoa, linh lực ngưng trệ, vội hỏi, “Cô cho tôi ăn cái gì đó?”
Sách Mã lạnh lùng đáp: “Là một loại nấm hiếm trong núi, sinh trưởng giữa đám tro tàn sau trận sấm sét, nó vô hại với Nhân tộc chúng tôi nhưng những
kẻ tu luyện mộc linh của Thần tộc nếu ăn vào sẽ mất hết sức lực, trở
thành người phàm như chúng tôi vậy.”
Lần đầu tiên Tây Lăng Hành
hiểu được tại sao Thần tộc vừa xem thường lại vừa kiêng dè Nhân tộc,
không chỉ bởi Nhân tộc đông đúc mà còn vì trời đất vạn vật tương sinh
tương khắc, ông trời từ lâu đã ban cho họ những bảo bối để khắc chế Thần tộc, chỉ cần vận dụng khéo léo thì con người cũng có thể đánh bại Thần
linh, giống như con đê có thể ngăn dòng nước ào ào chảy xiết nhưng một
tổ mối nhỏ cũng có thể phá hủy cả dải đê kiên cố vậy.
Tay Lăng Hành lặng lẽ nhìn Sách Mã, cô ta chẳng dám đối diện với ánh mắt nàng, bèn cầm một khúc cây, đập cho nàng ngất xỉu.
Sáng hôm sau, khi tỉnh lại, Tây Lăng Hành nhận ra mình đang bị trói trên đài tế mà Sách Mã nằm hôm qua, linh lực vẫn chưa hồi phục chút nào.
Tiếng trống thùng thùng rung trời chuyển đất, đám thầy tế đeo mặt nạ vây
quanh nàng vừa hát hò vừa nhảy múa, ánh chủy thủ loang loáng khiến nàng
hoa cả mắt.
Sách Mã nói với nàng: “Đem cô làm vật tế tốt hơn
tôi, máu tươi của cô không những có thể tế trời đất, mà còn khiến cho
tất cả chiến sĩ Nhân tộc thấy rằng Thần tộc chẳng có gì đáng sợ.”
Đám thầy tế ca vang một bài ca xưa cũ, vừa nhảy múa vừa tiến lại gần nàng.
Theo nghi lễ, các thầy tế sẽ cắt đứt kinh mạch tứ chi của Tây Lăng Hành, để
máu nàng chảy theo rãnh trên đài tế xuống đất, gọi là Úy địa, sau cùng
móc tim nàng ra dâng cho trời, gọi là Tế thiên, thông qua Tế thiên Úy
địa mà đổi lấy nguyện vọng của mình.
Cổ tay cổ chân nàng bị dao cắt, nhưng vì cắt rất nhanh nên chẳng hề thấy đau.
Linh lực cũng cuồn cuộn chảy ra theo dòng máu. Tây Lăng Hành cảm nhận rõ
ràng cái chết đang đến rất gần, nàng vừa gắng gượng vùng vẫy lần cuối
trong kinh hoàng, vừa nảy sinh cảm giác hoang đường, lẽ nào nàng lại
chết trong tay mấy thầy tế tầm thường này của Nhân tộc?
Máu tươi nhuốm đỏ đài tế, Tây Lăng Hành cũng chẳng còn sức vùng vẫy nữa, đành
buông xuôi, dùng chút sinh lực cuối cùng quyến luyến ngước nhìn bầy
không xanh biếc trên đầu, cha, mẹ, ca ca… gã vô lại mặc áo đỏ Xi Vưu
cũng hiện ra trước mặt, nàng không khỏi cười khổ, tiểu tử thối, ta đã
nói không hẹn lần sau kia mà!
Thầy tế cắm chủy thủ vào ngực Tây
Lăng Hành khiến toàn thân nàng co rút lại, ánh mắt mệt mỏi ngước nhìn
trời, đồng tử giãn ra trong đau khổ, bầu trời xanh biếc tan trong mắt
nàng, biến thành vô số ánh sao băng muôn màu sắc, ý thức của nàng cũng
tan tác theo những vì sao băng đó, bay về phía màn đêm.
Nhưng đúng lúc nàng sắp bị cuốn vào màn đêm vĩnh cửu, một đôi tay rắn rỏi ấm áp chợt bế bổng thân thể nàng lên.
Hơi thở như sương mai buổi sớm, tiếng nói như phượng gáy ngọc khua, “A Hành, xin lỗi nàng, ta tới trễ!”
Lại nghe chiến sĩ Thần tộc cao giọng xin lệnh, “Điện hạ, giết hết đám loạn dân này ư?”
“Bọn họ chỉ vì sự sinh tồn của tộc nhân, vốn không có tội, thả họ về làng đi.” Giọng điệu nam tử hàm chứa nỗi xót thương.
Y vừa dùng linh lực phong bế linh thức của nàng lại, vừa ghé tai nói nhỏ: “A Hành, ta là Cao Tân Thiếu Hạo.”
Thiếu Hạo, là Thiếu Hạo mà nàng tâm tâm niệm niệm mong gặp mặt… Tây Lăng Hành muốn gắng gượng mở mắt nhìn, nhưng ý thức đã tan vào bóng tối.
Chạng vạng tối, Xi Vưu một thân hồng y giẫm trên lưng đại bàng từ trời đáp xuống.
Dưới bóng tịch dương đỏ như máu, đài tế cổ kính từng thấm đẫm biết bao máu tươi càng đượm vẻ trang nghiêm.
Linh lực mạnh mẽ tản mạn trong không khí như tuyên cáo tin dữ của kẻ sở hữu linh lực này.
Xi Vưu lại gần đài tế, thoải mái nằm phục xuống vũng máu còn tươi, nhắm
mắt lại, cố thu thập khí tức của Tây Lăng Hành vương trên vũng máu rồi
khuếch đại linh lực bản thân thông qua cây cỏ và mặt đất, để tìm kiếm
dấu tích về sinh mạng nàng.
Từ lúc chạng vạng tới khi tối om,
gắn dốc hết toàn bộ linh lực, rà qua quét lại rất nhiều lần cũng chẳng
thấy chút khí tức nào của nàng.
Nàng chết thật rồi!
Thật chẳng ngờ đùa mà hóa thật, hai người bọn họ đã không còn ngày gặp lại!
Hắn dịu dàng vỗ nhẹ lên đài tế như vỗ về tình nhân, mặc cho máu nhuộm đỏ
ngón tay, gò má, lạnh lùng giễu cợt: “Sớm biết thế này, thà cứ để cô
chết dưới tay Chúc Dung còn hơn.”
Xi Vưu quay mình nhìn vầng
trăng tròn vành vạnh treo trên đầu ngọn cây, nhớ lại lần đầu gặp Tây
Lăng Hành cũng là một đêm trăng tròn thế này. Đột nhiên hắn thấy mỏi mệt vô chừng, mấy trăm năm nay, hắn chưa từng mỏi mệt đến nhường này, thậm
chí còn có phần chán ghét thế nhân.
Hắn nhắm mắt lại thiếp đi giữa vũng máu của nàng.
Nửa đêm, Xi Vưu bỗng tỉnh dậy, mũi đầy mùi máu tanh tanh ngòn ngọt.
Hắn đan hai tay vào nhau gối đầu lên, nằm ngửa giữa đài tế ngắm nhìn vầng
trăng hiu quạnh mà sáng tỏ, bỗng thấy lẻ loi vô hạn, tại sao ông trời
còn để hắn gặp lại nàng ở ngoại vi Bác Phụ quốc chứ?
Hắn nhắm mắt thì thầm: “Tây Lăng Hành, sớm biết thế này thà không gặp lại!”
Linh lực theo máu nàng chạy ra cuồn cuộn thấm vào lòng đất, khiến cây cối
trong làng tăng trưởng vùn vụt, trùm lên đường cái, vây lấy tường nhà,
phong kín cửa sổ. Tới khi thức giấc, đám dân làng kinh hoàng nhận ra nhà nào nhà nấy đều xanh mướt một màu cây cỏ, hơn nữa chúng vẫn không ngừng sinh sôi, nhìn thì mềm mại mà chèn vỡ tủ, vặn gãy ghế, quấn lấy bất kể
nam phụ lão ấu.
Tiếng kêu thảm thiết từ trong núi liên tục vẳng
ra, vô số chim muông cảm nhận được nỗi kinh hoàng liền xao xác bay đi
cả, thôn làng tĩnh mịch dường như đã biến thành một vùng đất chết. Riêng mình Xi Vưu vẫn gối đầu lên chỗ Tây Lăng Hành từng gối, uể oải cười
ngước mặt nhìn trời.
Tiếng kêu thảm từ từ tắt lịm, sơn cốc khôi
phục lại vẻ tĩnh lặng, cả thôn làng đều đã biến mất, chỉ còn đám cây cối xanh um ken dày rậm rạp.
Hắn nhảy lên lưng đại bàng, đại bàng vỗ cánh bay lên, thoáng chốc đã biến mất giữa bầu không.
Dưới ánh trăng, đàn tế cũng như bốn bề quanh đó đều bị đám cây cối bao phủ
dày đặc, nhìn từ trên xuống trông như một nấm mồ vĩ đại xanh mướt.