- Chờ thời cơ! Biết đâu… – Francisci nhướng mày theo lối anh chị của dân Corse.
Trời vừa tối, Nguyễn Thị Lý mời cơm cả đoàn.
- Quý vị chưa biết tôi... nhưng ông chủ Francisci thì biết... Hai vị này cũng biết… - Mụ Lý chỉ Thuần và Tường – Quý vị chớ ngại, với những bạn bè của ông chủ Francisci, khách sạn “Con gà vàng” tiếp đãi chu đáo, không lấy tiền phòng, không lấy tiền cơm.
- Bởi vậy, đến Savanakhet tôi không thể chọn chỗ nào khác. – Francisci đùa.
- Ông chủ thì đâu phải ngại tốn mà đến đây... Của riêng vẫn dành cho ông chủ.
Mụ Lý nheo mắt cười. Luân hiểu hai người đang nói về gái. Và ngay lúc đó năm cô gái ùa vào phòng. Mà cô sà vào đùi Francisci, cả năm cô đều là người lai: Hoa – Lào, Hoa - Việt hoặc Hoa – Thái, hết sức khêu gợi.
- Ông chủ chưa giới thiệu hai vị khách lạ với chúng tôi. - Mụ Lý ngó Luân và Thạch.
- Đây là ông Thành, người trong công ty của tôi. – Francisci chỉ Luân – Còn đây là ông Chuẩn, em họ của ông Thành... - Francisci nói về Thạch.
- Vậy, tôi may mắn gặp một ông chủ nữa. Xin chúc các vị ngon miệng. Các cô sẽ hầu các vị... Tôi xin kiếu...
Mụ Lý ra ngoài. Luân thầm khen Francisci khôn khéo trong đối phó.
- Đại tá chú ý, có thể bị chụp ảnh! - Nguyễn Thuần ghé sát tai Luân thì thào.
Không phải ai đó cần ảnh Luân đang ôm trong lòng một cô gái - người ta cần biết những cộng sự của Francisci. Nguyễn Cao Kỳ sẽ đặt câu hỏi: Luân sang Lào làm gì? Nhưng làm sao ngăn được? Cabot Lodge, Jones Stepp, thậm chí Maxell Taylor sẽ nhìn Luân với cặp mắt: thì ra gã là tay buôn bạch phiến.
“Được, mình có cách...” - Cuối cùng rồi Luân bình thản trở lại. Anh tỏ cho Thuần hiểu anh không sợ.
Chỉ có hai cô gái được giữ suốt đêm, một với Francisci, một với Tường.
*
Ngày hôm sau, họ đến Vientiane, bằng chuyến bay thường lệ của hãng hàng không dân dụng Lào. Tất cả nghỉ ở nhà khách của hãng, Francisci tiếp họ với tư cách Tổng Giám đốc. Buổi chiều, Francisci vắng nhà. Khi đi, chiếc cặp của anh ta căng phồng, lúc về, lép kẹp. Anh ta làu bàu: mất đứt hơn một vạn dollar.
Bữa cơm vội vã. Trời sụp tối, đoàn lặng lẽ rời nhà khách, ra bờ sông. Họ ngồi trên một chiếc thuyền vượt sông, không gây một tiếng động nhỏ. Đổ bộ lên đất Thái Lan, họ âm thầm nối đuôi nhau – Francisci dẫn đầu - băng qua cánh đồng khá rộng, sau đó lẩn vào rừng. Thỉnh thoảng, Luân nghe tiếng huýt sáo và Francisci đáp lại cũng bằng huýt sáo...
- Ổn rồi! – Francisci thở phào khi cả nhóm lọt ra một con đường mòn.
Ánh đèn pin lấp loáng trước mặt họ.
Ba chiếc Land Rover chực sẵn. Francisci mời Luân lên xe. Xe nổ máy. Trước và sau Luân là xe bảo vệ: Luân đã thấy tốp người mặc quân phục Thái Lan mang tiểu liên.
Đoàn xe theo con đường gồ ghề chạy mãi về hướng tây bắc.
- Các bạn nên ngủ... Ngủ trong tư thế khó chịu nhưng nên ngủ. Nhanh gì cũng phải quá nửa đêm chúng ta mới đến trạm. Sẽ có một bữa ăn khuya đền bù... - Francisci khuyên mọi người, anh toa xoải chân, tựa đầu vào thành cửa, một lúc sau, đã ngáy...
... Nơi mà đoàn xe đến là một thị trấn không to, nhưng khá sầm uất. Nguyễn Thuần cho Luân biết tên thị trấn của Bắc Thái Lan này: Chiêng Rai. Và, họ vào dinh của viên huyện – ông ta xun xoe đón Francisci, dù đã nửa đêm.
“Ghê thật! Francisci xỏ mũi cả huyện trưởng Thái” – Luân thực tâm phục tài Francisci.
- Chúng ta ăn thật nhanh. – Francisci giục mọi người.
Hai giờ sáng, ba chiếc Land Rover lại lăn bánh và độ nửa giờ sau, đến một đường băng, ở đó, một chiếc C.47 đã đợi họ.
- Chúng ta phải bay đêm. Không thể đến “Tam giác Vàng” vào ban ngày được. – Francisci bảo Luân.
Nguyễn Thuần và Tường vào buồng lái. Francisci, Luân, Thạch cùng nửa tiểu đội vũ trang ngồi bẹp ở khoang giữa – không có ghế. Mùi thơm bốc nực mũi: đây là máy bay chở thuốc phiện.
Máy bay nặng nề rời đường băng. Ánh sáng lù mù của thị trấn Chiêng Rai lùi dần.
- Nhớ tắt đèn báo hiệu! – Francisci mở cửa buồng lái nhắc Thuần.
- Chúng ta sẽ đến nơi trước rạng sáng – Francisci bảo Luân.
... Chiếc C.47 đáp xuống đường băng, lấy chuẩn từ mấy đống lửa. Trời còn tối, Luân không nhìn thấy khu vực - một màu đen sẫm.
Họ lại lên những chiếc Land Rover. Vẫn đường mòn xuyên rừng, chỉ khác là nhiều dốc. Trời mát lạnh. Họ đang ở trên một cao nguyên.
- Đến rồi! – Francisci nhảy ra khỏi xe. Trời vừa hửng, Luân có thể nhìn rõ vòng rào kẽm gai, tuyến chiến hào bao bọc một khu giống doanh trại quân đội.
Chiếc cầu treo từ từ thả xuống. Đoàn xe qua cổng. Những người lính – khó mà đoán họ thuộc sắc tộc gì - mặt lầm lì, chào Francisci theo nhiều kiểu. Họ trở nên rạng rỡ khi đám bảo vệ lôi trong xe ra những thùng rượu...
Tam giác Vàng là một khu vực nằm trên tả ngạn sông Saluen – con sông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng chảy qua Vân Nam, đông Miến Điện, đổ ra Ấn Độ Dương ở vịnh Martoban - độ cao hơn 1.000 mét so với mặt nước biển; là giáp giới của ba nước: Trung Quốc, Lào và Miến Điện mà phần đất của Miến Điện như chiếc gối nhô sâu vào tỉnh Vân Nam đến hàng trăm cây số. Nhiều tộc cư trú tại đây, Thái, Môn – Khơme, Tạng - Miến, Mèo – Dao... Trong lịch sử xa xưa, khu ba biên giới này không được xác định rõ rệt, lại rất hẻo lánh - gần như tách với thế giới vì không có đường giao thông thuận lợi - thường xảy ra tranh chấp giữa các Chính phủ, chủ yếu là giữa các bộ tộc, các lãnh chúa. Dân cư bên này hay bên kia biên giới vốn có họ hàng với nhau nên sự phân định địa lí chỉ có ý nghĩa tương đối. Đặc biệt, tộc Mèo – Dao tránh sự xâm chiếm của người Hán ở phương Bắc, từ nhiều thế kỉ trước đã tràn xuống vùng biên giới. Thời kì cuối Minh đầu Thanh, những vua nhà Minh kéo dài cuộc đề kháng tại đây. Tại đây, vua Vĩnh Lịch của nhà Minh bị Ngô Tam Quế bắt và bị giết. Do đó, một số người Hán định cư luôn, và nhờ trình độ văn hóa và tài tổ chức, họ thành thống lĩnh các bộ tộc, nói chung, sống ngoài vòng pháp luật của Chính phủ ba nước. Trong Thế chiến thứ hai, Anh và Mỹ dùng con đường Miến Điện tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch, qua ba biên giới. Quân đội Nhật không mò tới khu vực này. Khi Trung Cộng kiểm soát lục địa Trung Hoa, một bộ phận quân của Tưởng Giới Thạch lại chọn vùng ba biên giới làm căn cứ ẩn náu.
Là phần đất nhiệt đới nhưng khí hậu mát mẻ do độ cao, cây á phiện mọc khắp vùng. Cây á phiện trong vùng - rộng đến nửa triệu cây số vuông – cho chất lượng nhựa tốt hơn tất cả á phiện trồng ở Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Bắc Việt Nam, Trung Á... Nơi giáp giới ba nước nghiễm nhiên thành “Tam giác Vàng,” nguồn lợi lớn, cứ mỗi năm năm lại lớn hơn. Với cây á phiện, tình hình khu vực đột nhiên phức tạp. Các thế lực buôn lậu á phiện quốc tế tìm cách thâm nhập “Tam giác Vàng.” Luân khi nhận nhiệm vụ của Nhu, nghiên cứu mấy nét về vùng này.
Kasen, từ gốc Miến Điện: Kayin, có nghĩa là “man rợ” do thực dân đặt ột sắc tộc trên cao nguyên Dawna và lưu vực sông Tennaserrin. Vào thế kỉ XVII, các nhà truyền giáo Anh thu hút hàng trăm nghìn người Kasen vào đạo Thiên Chúa trong tổng số bốn triệu dân Kasen, xui Kasen chống lại các cuộc nổi dậy của Miến Điện – năm 1947, Anh tổ chức mặt trận Kasen với quân đội hẳn hoi.
Sau này mặt trận phân hóa, phe nắm các nhóm Kasen mà bọn buôn á phiện lậu là thế lực chi phối quan trọng, thậm chí đứng đằng sau cả “Phong trào đòi quốc gia Shan độc lập.” Xứ Shan thuộc Miến Điện, liền ranh giới “Tam giác Vàng.”
Có thể nói, Tam giác Vàng là nơi cung cấp á phiện sống quan trọng nhất thế giới, tính hàng nghìn tấn mỗi năm. Trước kia, các “băng” buôn lậu chủ yếu thu mua á phiện sống tại đây, chuyển tải sang Hongkong chế biến. Nhu cầu tiêu thụ á phiện trên thế giới tăng vùn vụt, do lượng người nghiện ngày càng đông. Theo thống kê của tổ chức chống ma túy quốc tế, số người nghiện ma túy ở Cộng hòa Liên bang Đức từ năm nghìn ba trăm năm 1955 lên năm mươi nghìn năm 1960. Con số tương ứng ở Canada là từ ba nghìn bốn trăm lên sáu mươi nghìn, ở Anh từ ba trăm ba mươi lăm lên hai mươi nghìn, ở Hongkong từ chín nghìn lên chín mươi nghìn, ở Ý từ một trăm sáu mươi lăm lên mười nghìn, ở Thái Lan từ mười tám nghìn lên ba trăm năm mươi nghìn, ở Mỹ từ mười nghìn lên sáu trăm nghìn. Riêng ở Mỹ, 25 đến 40% sinh viên nghiện ma túy dưới những mức khác nhau. Cũng theo thống kê của tổ chức chống ma túy quốc tế, sản lượng heroine đã lên 50 tấn mỗi năm và riêng Hongkong đã cất chế đến 20 tấn.
Tuy nhiên, việc chuyên chở á phiện sống ngày một khó khăn: khối lượng kềnh càng khó che giấu. Các “băng” - gọi theo một nghĩa thông dụng là các công ty - quyết định chế biến ở những vùng gần nguyên liệu. Nhưng, đầu những năm 1960, Tây Bắc Lào, Đông Bắc Miến Điện, Đông Bắc Thái Lan xáo trộn liên miên – đánh nhau giữa các phe nhóm, phong trào cách mạng phát triển... Thế là các công ty buộc phải chế biến tại chỗ, mặc dù cơ sở vật chất thiếu thốn, mướn nhân viên tốn kém, khó bảo vệ, dễ sạt nghiệp nếu bị quân Chính phủ tấn công. Mỗi công ty, do thỏa thuận theo “luật giang hồ,” chia nhau khu vực thu mua và cũng chia nhau thị trường tiêu thụ. Francisci - từng ở Việt Nam lâu năm - chọn Sài Gòn làm cảng xuất khẩu, bằng đường bay và tàu biển, qua hệ thống người Triều Châu rất già dặn kinh nghiệm xuất khẩu á phiện, qua nhóm thủy thủ đi châu Âu và châu Mỹ, qua cả quân nhân Mỹ.
Như vậy, thắc mắc của Luân được giải đáp: Francisci phải liên kết với Nhu. Mối “đồng minh” này thiết lập từ năm 1960, sau cuộc đảo chính không thành của Nguyễn Chánh Thi. Trần Kim Tuyến môi giới và Francisci gặp Nhu nhiều lần. Nhu cho phép Tuyến thành lập một đơn vị vũ trang gồm mươi sĩ quan người Kinh và một đại đội người Rhadé bảo vệ cơ sở chế biến của Francisci ở ngoại vi thị xã Kon Tum, sau đó, rời về Sa Thầy. Một nhóm công binh xây dựng đường băng áy bay, bố trí công sự mà họ chỉ biết là để phục vụ cho công tác biên phòng. Francisci đón một số chuyên viên chế biến kĩ thuật từ Lào và Hongkong sang. Anh ta sản xuất loại á phiện sơ chế mang nhãn hiệu U.4 – nhãn hiệu thật ra của Raticun, Tổng tham mưu trưởng của Hoàng gia Lào, rất được tín nhiệm trên thị trường vì “nguyên chất” và được luyện với tay nghề cao. Francisci cũng sản xuất các loại kẹo ngậm có thành phần á phiện dành cho trẻ con và tẩm á phiện vào thuốc lá – cách gieo giắc nghiện ngập từng bước và cũng là cách tạo khách hàng bền vững.
Francisci không cần chuyện chính trị. Anh ta có mỗi mong ước là làm sao sản xuất và xuất càng an toàn nhiều heroine, món hàng này không bao giờ xuống giá. Anh ta đang hợp tác với Nhu và sẽ hợp