- Chưa biết đề án của đại tá sẽ do ai sử dụng? - Nguyễn Thuần nói với Luân trong khi Luân đánh dấu chấm hết trong bản kế hoạch.
- Nghĩa là? – Luân hỏi lại.
- Đại tá quá rõ... - Thuần ngó Luân, mắt như giễu cợt.
Từ hôm đi cùng với Luân, Thuần ít nói. Nhưng Luân đánh giá viên thiếu tá phi công này không phải là “bình thường.” Anh ta từng nhận làm cò mồi cho ai đó để gài bẫy Dung, sau lại tỏ vẻ hối hận... Và anh ta được Nhu tin dùng.
- Chúng ta là quân nhân, nghĩa là chỉ biết kỉ luật! – Luân trả lời chung chung.
- Còn có những thứ kỉ luật khác nghiêm khắc hơn các hoa mai mà đại tá và tôi cài lên ve áo! Tôi nói kỉ luật của thời thế...
- Theo thiếu tá, thời thế sẽ ra sao?
- Câu hỏi như vậy nên để tôi đặt cho đại tá, một trong không nhiều người lắm ảnh hưởng đến thời thế...
- Thiếu tá coi tôi như Nã Phá Luân không bằng!
- Chắc chắn đại tá không là Nã Phá Luân. Trước hết, vì đại tá không thích làm hoàng đế, kế đến, vì thời gian chúng ta cách xa thời đại Nã Phá Luân đến một trăm năm mươi năm. Nhưng, đại tá dù không phải Nã Phá Luân vẫn phải gách vác trách nhiệm, có phần do người ta đùn cho đại tá, có phần do đại tá tự nguyện...
Nguyễn Thuần tiếp tục dồn Luân. “Anh ta hiểu mình như thế nào? Hiểu đến đâu?” Luân tự trách chưa đi sâu về anh chàng này.
- Tôi là một sĩ quan lái máy bay... Chưa ai có thể trình lí lịch gọn bằng tôi! Tôi thích ngành không quân, được tuyển đi học và lái máy bay, từ máy bay trinh sát, chiến đấu, ném bom đến vận tải. Có thể đại tá thắc mắc, tôi đóng trò bỉ ổi ở Buôn Mê Thuột để làm gì? Quá đơn giản.
Tôi thích bà – dù đã là phu nhân của đại tá – lúc ấy, mới là thiếu tá. Có người khích tôi? Vì sao họ khích tôi? Tôi không cần biết. Tôi nghĩ rằng không khó chinh phục một phụ nữ nếu tôi muốn. Tôi nhận lời thách. Nhận như từng nhận và từng thắng trước đây - kể cả với những bà nổi tiếng đức hạnh, vợ của tướng, bộ trưởng, thậm chí, vợ của các cố vấn nước ngoài. Tại Biệt điện, tôi thua – thua như một võ sĩ hạng ruồi lại nghinh chiến với võ sĩ siêu nặng. Tôi tự ái, căm ghét bà, căm ghét luôn ông. Nhưng, không lâu, tôi lại bị “nốc ao” lần nữa. Lần này, khác hẳn về diễn biến. Một bà – xin phép đại tá, tôi giấu tên, vả lại cái tên chẳng nghĩa lí bao nhiêu - từng buông thả vào vòng tay tôi, bỗng trở chứng ngay trong lần hò hẹn mà bà chủ động. Tôi bị kết tội toan cưỡng dâm một mệnh phụ. Đáng lí tôi vào quân lao để chờ ngày lĩnh một cái án, ít nhất cũng mười năm tù... Người ta làm ra vẻ rộng lượng và tôi phải chuộc tội. Tôi chuộc tội bằng cách lái máy bay chở thuốc phiện. Tôi được thăng cấp, Francisci tặng tôi tiền, nghĩa là đôla. Với đôla, tại Sài Gòn, tôi bảo một tay dắt mối tìm cho tôi một mệnh phụ đẹp và nổi tiếng đỏng đảnh. Kẻ đến hiến cho tôi chính là bà mệnh phụ nọ! Lần này, tôi đủ khôn ngoan. Tôi bố trí chụp ảnh lúc ân ái. Bà mệnh phụ khóc, thú nhận trước kia mê cái mã của tôi, lần bà hại tôi là do mưu của chồng, lần này, bà cần tiền... bà xin tôi hủy các bức ảnh... Tôi không đồng ý, phòng xa vẫn tốt hơn. Tôi ra điều kiện: làm trắng cái án cũ của tôi đi. Vài hôm sau, người ta tặng huân chương cho tôi với thông báo toàn quân chủng: Thiếu tá Nguyễn Thuần anh dũng trong công vụ, từ trước tới nay luôn luôn giữ đúng tư cách sĩ quan... Tôi xé ảnh, đốt phim trước mặt hai vợ chồng – tôi buộc chồng bà ta chứng kiến. Ảnh và phim vừa cháy, cả hai trở mặt: sẽ hủy huân chương và tôi phải ra tòa vì bản cung do tôi kí vẫn còn nguyên... Nhưng, tôi sẽ được khoan hồng nếu tôi lung lạc được bà Thùy Dung. Họ nói rõ cần các bức ảnh giống như tôi vừa đốt. Hai vợ chồng gã lái buôn mạt hạng này đắc ý không lâu: tôi bảo cho họ biết, phim đã phiên bản và tôi còn giữ nhiều ảnh... Người chồng thất thểu ra về, người vợ ở lại với mọi trò mà chắc người đứng đắn như đại tá không sao tưởng tượng nổi. Tôi tống cổ mụ ta ra cửa. Tôi kinh tởm. Tôi bảo: thà ngủ với điếm vẫn an toàn hơn, điếm có giá biểu, nếu nhỡ đụng phải vi trùng thì đã có bác sĩ, còn ngủ với loại điếm lậu, vừa đòi hỏi nhục dục vừa muốn giữ danh giá, vừa thèm tiền, vừa tráo trở thật nguy hiểm... Tôi cũng dạy họ, chớ đụng vào bà Thùy Dung...
Nguyễn Thuần nói một hơi và kết luận:
- Một chế độ như thế mà đại tá cùng tôi phục sự nó!
Thái dương Nguyễn Thuần giật giật... Anh ta không bịa, Luân tin ở xét đoán của mình. Đến một anh chàng trác táng còn hiểu được cái nhơ nhớp của cái gọi là “chế độ cộng hòa.” ... Sự cáo chung của nó là tất yếu. Nhưng, Thuần vẫn chưa khám phá bàn tay thực sự xô cả một tầng lớp thượng lưu vào tấn tuồng bỉ ổi đó. Thuần chưa hiểu và cũng chưa phải lúc làm cho Thuần hiểu.
Họ quay về, lần này theo lối khác: dùng đường bộ đến bản Huôi Xai của Lào rồi về Luang Prabang, nơi họ sẽ đáp máy bay tới thẳng Savanakhet. Lộ trình do Nhu quy định, để Luân quan sát được các con đường vận chuyển khác nhau. Bản Huôi Xai vẫn còn tương đối an toàn, ít ra đến vụ thu hoạch mùa xuân sang năm. Đoàn xe rời bản Huôi Then vào lúc gà rừng chưa gáy.
Đoàn xe vòng lên phía bắc thị trấn Mong Wao, rồi quặt xuống phía Nam, xuyên qua thị trấn Kentung - chỉ là một khu dân cư với vài hàng quán. Có vẻ dân địa phương quen với những đoàn xe kiểu này. Xe dừng, mọi người vào một quán điểm tâm. Chủ quán người Hoa rối rít mời khách. Một phụ nữ đen đúa cho con bú; một chú bé chắc chừng ba tháng, mặc dù trời khá rét, vẫn trần truồng.
- Chang Xưởng và vợ ông ta... - Nguyễn Thuần giới thiệu riêng với Luân.
- Người Quảng Đông?
- Phải, bà vợ người H’Mông.
Quán là một căn trong dãy nhà lợp ngói vách ván. Nếu không có người phụ nữ, Luân ngỡ mình đang ở Chợ Lớn. Bày trí, khói, mùi mỡ hành, tiếng dao băm thịt, giống mọi tiệm hủ tiếu. Đủ cả, xíu mại, dầu cháo quẩy, bánh bao... Sau cùng, cà phê và trà – trà ướp lài.
Lúc đoàn xe sắp rời quán, một toán người từ phía Mong Wao sải ngựa đến. Họ gồm trên hai chục, tất cả đều cầm súng carbine và đeo súng ngắn, kèm theo ngọn dao to bản đuôi bọc da dắt trên lưng, đội nón lá cọ rộng vành, đi giày nhà binh, có thể của Mỹ. Họ cột vào gốc cây trước quán bầy ngựa Bắc Thảo, bờm dựng đứng, không một người nào trong họ cao ngang yên ngựa.
Francisci lầm lì hẳn. Khi lên đến xe, anh ta nói với Luân
- Bọn U Ba Thiên đó.
Luân ngoảnh lại: các kị sĩ trông theo đoàn xe và hình như một gã nói điều gì đó với đồng bọn, vẻ nghiêm trọng, gã chủ quán cũng châu đầu vào...
- Có thể xảy ra việc gì? – Luân hỏi.
- Chưa biết... Cũng có thể không xảy ra việc gì cả. Ta đi xe, chúng đi ngựa... - Francisci trả lời. - Hơn nữa, chúng đã đếm số người của ta và nhất là đã thấy số người của ta được trang bị như thế nào...
Ba chiếc Land Rover gồm mười lăm tay súng loại tiểu liên cực nhanh, cực mạnh, chưa kể đến Francisci và nhóm Luân, không kể lái chính và lái phụ đều có súng tùy thân, mỗi xe thêm một trung liên.
Đoàn xe theo con đường đá từ Simao của Vân Nam đổ theo triều Đại Lĩnh qua đầu nguồn sông Mê Kông, xuôi xuống Nam. Đó là quan lộ duy nhất nối miền heo hút này với thế giới bên ngoài. Đường mở vào năm 1941, nay hư hỏng nặng. Tốc độ của đoàn vì thế rất chậm, đôi đoạn nhích từng mét một. Hai bên đường không có làng, bản; các nương ngô cũ cây cỏ dại bít chịt. Mãi trước lúc mặt trời lặn, đoàn mới đến xóm nhỏ, với năm ba ngôi nhà sàn.
- Đây là nơi giáp giới Thái Lan. - Nguyễn Thuần chỉ cho Luân trên bản đồ cùng tô màu đỏ sậm; dải núi Tanen Tong ngăn Miến Điện và Thái Lan.
- Chúng ta vẫn còn ở độ cao gần 2.000 thước. - Nguyễn Thuần nói tiếp.
Bữa cơm nếp thịt gà thật ngon miệng, Francisci cấm các người trong đoàn uống rượu.
- Đoạn thử thách bắc đầu... - Francisci gọi toán bảo vệ quây quần chung quanh anh ta căn dặn. Xe chở Francisci và nhóm Luân chạy giữa, hai xe bảo vệ chạy trước và sau. Mọi người ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Đoàn xe bấy giờ chuyển sang hướng đông
- Khoảng mười giờ, chúng ta vượt sông Mê Kông; trễ lắm hai giờ sáng cũng tới bản Huôi Xai. – Francisci xem đồng hồ tay bảo Luân.
Đoàn xe theo đường mòn, xuống dốc dần. Họ vượt qua một thung lũng chắc có cư dân – ánh lửa, ánh đèn ẩn hiện sau đám lau sậy.
Đến sông. Nước dân cao bởi đang mùa lũ. Xe được chở trên chiếc bè kết bằng nứa, lần theo sợi dây mây căng trên hai bờ. Các đoàn lặng lẽ, luôn những người chống bè.
- An toàn rồi! – Francisci thở phào khi xe lên bờ. Anh ta cho phép cả đoàn hút thuốc, nghỉ ngơi giây lát.
Luân bấm đèn pin soi bản đồ, chợt hỏi:
- Từ Kentum đến bản Huôi Xai ngoài đường mòn dùng cho xe hơi mà chúng ta đang đi có con đường tắt nào chỉ đi ngựa?
- Có. – Francisci trả lời - Một con đường rất hẹp, ngoằn nghèo, gần như song song với xe hơi, trịch về phía Bắc...
- Hai con đường sẽ gặp nhau ở đâu?
- Ngay trên đỉnh đồi trước mặt chúng ta...
- Vậy thì chúng ta nên đi ngay, thật nhanh!
Francisci như hiểu ra nhưng lại nhún vai.
Đoàn xe gấp rút rồ máy, vách núi dựng đứng, xe chậm chạp bò lên đồi.
- Trong số người của U Ba Thiên mà ông gặp ở quán, có ai là sĩ quan? Hoặc cầm đầu? Họ là người thuộc tộc nào? – Luân hỏi.
- Hai thằng chỉ huy, một thì tôi từng chạm mặt song không biết tên, nó nguyên doanh trưởng của Lý Mật – như tiểu đoàn trưởng – sau này về với U Ba Thiên. Một thằng phó chỉ huy, tên Vàng Pao, vốn là tướng cướp. Phần lớn số đó là người H’Mông, cư trú vùng này.
- Hình như U Ba Thiên có căn cứ ở Thượng Lào?
- Đúng, hơn trăm cây số phía đông bắc Huôi Xai, sát biên giới Vân Nam... Vàng Pao chỉ huy căn cứ đó.
- Ông Francisci, ông cho phép tôi bố trí đoạn đường này... Theo tôi, chúng ta chưa an toàn.
Francisci cười nửa miệng:
- Xin mời đại tá, phòng xa tốt thôi, nhưng cũng chỉ là phòng xa. Qua ngọn đồi này, chúng ta đã đến các bản ngoại vi thị trấn bản Huôi Xai, cách ngọn đồi không xa, đồn binh của tướng Raticun...
Luân không tranh cãi với Francisci
- Chú Thạch! – Luân bảo – Chú lái xe thay tài xế...
Thạch trèo lên chỗ tay lái. Người tài xế cũ lầm lì ngồi xuống chỗ của Thạch.
- Tôi sẽ ngồi chỗ người phụ lái! – Luân quyết định tiếp, anh lôi khẩu trung liên lên ghế đầu với anh.
- Thiếu tá Thuần, thiếu úy Tường, khi tình hình cần nổ súng, chú ý bắn cấp tập... Ông Francisci, ông dặn số bảo vệ cũng làm như thế.
Francisci ra lệnh cho tổ bảo vệ trong xe và gọi bộ đàm cho hai xe hộ tống, dặn một cách chiếu lệ.
- Thế còn tôi? Tôi làm gì? – Francisci hỏi, vẫn cười.
- Phiền ông nạp đạn giúp tôi! – Luân bảo, không