Phần 5 - Chương 1
Trời xanh qua kẽ lá
Mái tôn thủng lỗ chỗ, nhiều tấm xô lệch cong queo, mặt trời sắp trưa ném xuống vô số tia châm chọc, luôn cả mấy khối sáng lóa mắt báo ngày cuối cùng của năm Kỷ Hợi đang cận đến những giờ cuối cùng. Ngôi nhà trống hoác, khung cửa sổ ngổn ngang, tường lém khói. Đại tá Phan Cao Tòng - thân hình thực tế tương phản với tên gọi - ngồi sau chiếc bàn sắt màu “ghi” méo mó, trên chiếc ghế xoay mất chỗ dựa, dán mắt vào xấp giấy. Hàng chục sĩ quan đeo quân hàm thiếu tá, trung tá dồn nơi góc phòng, nín thở theo dõi từng cái nhíu mày của đại tá. Không khí im vắng, trang nghiêm đến độ những người có mặt dường như cử hành một lễ truy điệu. Đúng, hai mươi tử thi phủ vải dù loang lổ im lặng nằm trên băng ca xếp hàng ngang ngay phòng bên cạnh. Nhưng, không phải sự mất mát nhân mạng kia gây hốt hoảng mà cái kho vũ khí lồ lộ ngay trước mặt - kho vũ khí chỉ còn nền gạch và giá gỗ - ám ảnh họ.
Ngôi nhà - Sở chỉ huy trung đoàn Lam Sơn - hết còn vẻ hách dịch và trung tá trung đoàn trưởng phiền muộn vì cha mẹ trót sinh anh ta cao lỏng khỏng, thật bất tiện vào lúc như thế này, lúc mà anh ta thấy thừa cả một cái đầu trong số những cái đầu càng cúi thấp càng tốt.
Nói chung, đại tá Tư lệnh sư đoàn đọc là chính, và khi ông liếc về hướng thuộc hạ thì có nghĩa tình thế chưa ổn. Quả đại tá chẳng còn bụng dạ đâu mà lên mặt - ông thích làm như thế để trả thù lũ thuộc hạ từng khinh nhờn ông: Trước khi xảy ra sự cố hãi hùng này chúng gọi ông là “đại tá lái bò” - việc cấp bách số một của ông bây giờ là “bào chế” bản báo cáo trơn tuột để cấp trên có thể ôkê. Chốc chốc, đại tá lau kính. Cặp kính gọng vàng ngày thường dán một chút trí thức trên khuôn mặt bè của ông giờ đây trở chứng, cứ đóng lớp hơi đục, lau mãi vẫn mờ. Lần đầu, thuộc hạ gặp vị chỉ huy sư đoàn không chải đầu và cũng lần đầu ông gặp thuộc hạ nhìn ông với sự mong chờ và đồng lõa. “Tao chứ không phải bất cứ ai trong bọn chúng mày đến hiện trường khi mùi thuốc súng chưa tan… bố tiên sư chúng mày, giỏi thì trêu ông, xem nào!” Đại tá chợt nổi nóng, tay xoa nhẹ má - mảnh băng to tướng quấn vòng ót ông, công trình của cô vợ đã nâng thêm uy thế ông. Tuy vậy, chưa phải lúc… Bộ tư lệnh quân khu và Bộ tổng tham mưu điện liên hồi đòi báo cáo. Ông hứa giữa trưa mai thì có, báo cáo sẽ được gửi bằng một chuyến trực thăng đặc biệt.
Ông lại tiếp tục đọc, quên rít chiếc tẩu đang kéo trệ mép ông, mũi phập phồng. Nếu ngày thường, bọn thuộc hạ đã kháo: Coi kìa, đại tá đang đánh hơi dái bò!
Cô vợ mang cho ông cốc cà phê đặc, rồi kéo ghế ngồi sát ông, ghé đọc. Chẳng ai coi đó là chuyện chướng. Trái lại, ai cũng cầu khẩn cho bà đại tá đủ tài năng giữ nổi hoa mai trên cầu vai họ hoặc chí ít giúp họ khỏi ra tòa án binh như bà biến cái gò cằn cỗi ở Cẩm Giang thành trại bò sung nhất tỉnh. Băng Trinh - tên của cô - thì thầm điều gì với đại tá mà đại tá thoáng cười - cái cười hiếm hoi suốt mấy giờ qua - và mọi người nhìn cô như chiêm ngưỡng Phật Bà Quan Âm, mặc dù, lần đầu tiên họ gặp cô không thoa son, đánh phấn…
Có bốn bản báo cáo. Đại tá tự phát hiện hay cô Băng Trinh phát hiện, không ai rõ, song đại tá rút bút gạch lia lịa.
- Mỗi ông nói một phách như thế này thì chết! - Đại tá gằn giọng - Giờ Việt Cộng nổ súng không thống nhất, ông thì bảo mười một giờ, ông bảo mười hai giờ, ông bảo ba giờ sáng… Sự thật là 1 giờ 2 phút, biết chưa? Giờ mới của Việt Nam Cộng hòa còn giờ Việt Cộng thì đúng giữa khuya…
- Báo cáo thế này lố bịch quá! - Đại tá bảo, rồi lè nhè giọng - Nhân lúc lính đổi gác, một toán Việt Cộng lén lút bò vào bên trong trào trại Sùng định trộm súng. Bị phát hiện, chúng bắn bừa bãi rồi bỏ chạy. Lập tức trung đoàn trưởng trung đoàn Lam Sơn Hà Duy Cường truy kích. Quân ta đuổi kịp chúng tại rìa rừng Trà Vông, phía đông thị xã Tây Ninh 25 kilômét, diệt nhiều tên (Việt Cộng khiêng xác đồng bọn, song dựa vào dấu máu, có thể tính chắc chắn chúng bị hạ không dưới năm mươi tên). Ta thu sáu súng cá nhân, hai súng cộng đồng. Bên ta hai mươi chiến hữu anh dũng đền nợ nước.
- Trung tá dám kí tên vào báo cáo, tôi mời! - Đại tá mỉa mai - Tôi không dám. Một toán Việt Cộng lén lút bò vào doanh trại, bỏ chạy như vịt khi bị phát hiện lại có thể gây cho Quân lực Việt Nam Cộng hòanhững hai mươi tử thương! Xác Việt Cộng thì được khiêng đi sạch, còn xác quốc gia nằm chềnh ềnh kia… Trung tá diệt hết toán Vixi nhỏ mọn đó, lấy đâu chúng đủ người khiêng đồng bọn? Và, trung tá, chạy cách nào mà nhanh thế? Hai mươi lăm kilômét nhé! Bịa…
Đại tá kịp nhận ra mình đã lỡ lời:
- Bịa, tất nhiên… Mà bịa phải hữu lí.
Không ai lên tiếng. Trung tá Hà Duy Cường thở dài.
- Đây là báo cáo của trung tá Tạ Khai, các ông nghe. - Đại tá lườm viên trung tá tham mưu trưởng sư đoàn: anh chàng mang một chiếc bụng cực to - “Vào 0 giờ 27 phút ngày 27 tháng 1, Việt Cộng thuộc các tiểu đoàn 60, 70, 80, 90, 100 của khu ủy Cộng sản Đông Nam Bộ do thiếu tướng Cộng sản Nguyễn Hữu Xuyến tự Tám Kiến Quốc (còn gọi là Tám Dên Dên) chỉ huy, Xứ ủy viên Cộng sản Mai Chí Thọ tự Tám Cao làm chánh ủy, đại tá Nguyễn Nhọn tự Tám Lê Thanh (còn có tên Tám Bằng Lăng) làm tham mưu trưởng, quân số chúng lên đến ba nghìn tên, trang bị sơn pháo, bích kích pháo và đại bác không giật, dùng bộc phá đánh sập cổng trại Sùng, tràn ngập hậu cứ sư đoàn 13 bộ binh tại Tua Hai, cách thị xã Tây Ninh 5 kilômét về hướng Bắc. Trung đoàn Lam Sơn bị tổn thất tương đối nặng. Tham mưu trưởng sư đoàn, trung tá Tạ Khai sử dụng trung đoàn Bãi Sậy phản công. Sau nửa giờ kịch chiến, Việt Cộng bỏ chạy tán loạn. Quân ta truy kích tận bờ sông Vàm Cỏ. Ghi nhận đầu tiên, địch chết và bị thương năm trăm tên. Theo tin dân chúng, thiếu tướng cộng sản Nguyễn Hữu Xuyến và Xứ ủy viên Cộng sản Mai Chí Thọ đã tử thương. Chúng tôi đang phối kiểm và sẽ phúc trình nay mai. Ta thâu tám mươi vũ khí cá nhân, phần lớn sản xuất tại Trung Cộng, mười vũ khí cộng đồng gồm: bốn bích kích pháo 60 li, hai trọng liên 12 li 8.
- Con số địch hơi nhiều! - Đại tá nhếch mép - Trung tá tham mưu trưởng bấy giờ ngủ tại Gò Dầu, nên tưởng tượng quá viển vông. Ông lại cho trung đoàn Bãi Sậy truy kích địch về hướng Tây, ngược hẳn hướng với trung tá Hà Duy Cường… Người ta nhất định không tin báo cáo này bởi người ta biết trung tá không thể hành quân truy kích với cái bụng to như thế. Muốn thêm một hoa mai không có gì xấu, miễn đừng chơi trội người khác…
Ngôi nhà tiếp tục im ắng. Đại tá đay nghiến cay độc bao nhiêu cũng được, nhưng cần có lối thoát trước mười hai giờ… Tạ Khai không có vẻ gì tự ái, ông ta chăm chú lắng nghe, chờ đợi… Báo cáo tiếp của thiếu tá trưởng phòng quân báo sư đoàn. Phần đầu, báo cáo giống phần đầu của tham mưu trưởng, chỉ khác giờ nổ súng và thêm một chỉ huy phó Việt Cộng: đại tá Nguyễn Văn Thượt tự Năm Quốc Đăng. Quân số Việt Cộng ở đây rút xuống còn một nghìn tên, không có vũ khí nặng, hình thức chiến thuật là đặc công “phối hợp với vài tên nội tuyến,” trận đánh nhằm yêu cầu tuyên truyền, thương vong đối phương chưa xác định, vũ khí tịch thu thuộc loại súng cũ. Trung đoàn Yên Thế truy kích về hướng Bắc, hủy hai xe vận tải quân sự hiệu Môlôtôva tại cầu Cần Đăng. Thương vong của ta “không đáng kể”…
- Lộn xộn quá! - Đại tá nhận xét - Gán hai chiếc GMC cho hãng Môlôtôva không ổn… Nhắc làm gì bọn nội tuyến? Không có nội tuyến trong sư đoàn, các ông nhớ cho… Theo tôi, báo cáo của thiếu tá Lê Đạo, trưởng phòng an ninh sư đoàn là khá hơn hết, nếu sửa chữa đôi chút và bổ sung vài chi tiết có ở báo cáo của trung tá tham mưu trưởng và thiếu tá trưởng phòng quân báo.
Thiếu tá Lê Đạo được đại tá cho phép đọc báo cáo viết sẵn. Con người lùn choắt, nói giọng Quảng Bình rất khó nghe phút chốc trở nên “cây đinh” của buổi diễn tập. Bản báo cáo được hối hả đánh máy. Đại tá kí tên xong, chiếc trực thăng quay cánh. Ngôi nhà nhẹ hẳn.
Liền đó, những tiếng nổ của bộc phá, các cỡ súng rộ lên, mấy căn trại khu gia binh bốc cháy trong khi công binh vội vã xây lại cửa kho vũ khí cho nó nguyên vẹn như chưa hề vơi đi dù là vài khẩu súng lẻ…
*
Trong quân đội Liên hiệp Pháp, Phạm Văn Cảm và Phan Cao Tòng được xem như là anh em song sinh. Cảm cao to, Tòng thấp. Cảm quê Sơn Tây, Tòng Nam Định. Cảm lớn hơn Tòng trọn một con giáp. Thế mà hai người vẫn “song sinh.” Cớ sự như sau: Phạm Văn Cảm xuất thân từ lính khố đỏ, sau chuyển sang chăn ngựa cho tướng Alessandri, tư lệnh Bắc Bộ. Cảm thường đánh bạc ở phố Mã Mây, có lần thua cháy túi, nhờ Tòng cho vay. Tòng làm bồi trong một khách sạn. Hai người trở thành bạn. Chủ khách sạn, một cựu sĩ quan Pháp, có cô vợ bé tên là Băng Trinh mà hắn đưa từ Sài Gòn ra, cô này dan díu với Tòng, bị bắt tại trận, Băng Trinh phải vào nhà số, Tòng ra tòa với bản án ăn cắp.
Cảm trả ơn Tòng, xin Alessandri can thiệp hủy bản