Phần 6 - Chương 1
Lời cảnh cáo sau cùng
Ngô Đình Diệm không thích thú bài diễn văn nhậm chức của Tổng thống Mỹ Kennedy. Chẳng phải vì bài diễn văn ấy thả quả bóng thăm dò hòa hoãn với Nga Xô quanh vụ chiếc máy bay do thám U2 bị bắn rơi và phi công Power bị bắt sống mà vì lời lẽ mơ hồ của Kennedy đối với ông. Kennedy nhắc rằng ông ta giữ nguyên các cam kết của các Tổng thống tiền nhiệm trong chính sách đối ngoại và, ở Nam Việt, Kennedy “tiếp tục ủng hộ một thể chế tự do.” Quả những từ “thể chế tự do” khá úp mở. Người ta có thể hiểu, như thói quen, nền Đệ nhất Cộng hòa Nam Việt do ông lãnh đạo đang là quán quân của thể chế đó. Song, người ta vẫn có thể hiểu cách khác: “thể chế tự do” ngược với thể chế độc tài, phát- xít, gia đình trị mà các nhóm chống ông gán cho ông. Không chỉ đài Giải phóng hay đài Hà Nội gọi xách mé ông như vậy mà có vẻ nhiều giới, cả bạn hữu ngoài nước, chọn góc độ và dùng lăng kính tệ hại ấy nhìn ông.
Tại sao tân Tổng thống Mỹ không cam kết ủng hộ cá nhân ông như họ từng cam kết? Nam Việt tức là ông. Ủng hộ Nam Việt đương nhiên phải là ủng hộ ông. Người Mỹ muốn thay đổi cái chân lí đơn giản đó ư? Tại sao Kennedy không nói thẳng rằng Tổng thống của Đảng Dân chủ vẫn xem ông - Ngô Đình Diệm - là niềm tin cậy và hi vọng của Mỹ ở Đông Nam Á?
Sau cái ngày 11-11 đáng ghét, ông chờ đợi một lời xin lỗi của Mỹ, gián tiếp cũng được. Elbridge Durbrow, đại sứ và Mac Garr, trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ lờ việc này. Chẳng lẽ ông phải xin lỗi họ vì đã dẹp tan bọn đảo chính hoặc triệu tập họ đến Dinh Độc Lập để gạ họ xin lỗi ông? Người Mỹ, chắc chắn rồi, đã nhúng tay vào vụ lính Dù, lính Biệt động bạo loạn, song ông không có bằng chứng buộc tội họ. Không đủ bằng chứng theo cái nghĩa ông không chụp được quả tang bàn tay của họ đang thò ra.
Kennedy nhậm chức hơn một tuần, đại sứ Durbrow gặp ông, không phải chính thức mà nhân lễ khánh thành Trung tâm kĩ thuật Phú Thọ. Có thể đánh giá cuộc nói chuyện xã giao kéo dài chừng năm phút giữa Durbrow và ông là những gì Kennedy nhắn nhủ ông. Ông giận tái mặt, chiếc can run bần bật trên tay. Giá phang được thằng đại sứ này mấy can liền, hỉ! Durbrow chỉ cười rất nhã nhặn.
“Tổng thống Kennedy quan tâm đặc biệt đến vấn đề thực thi dân chủ ở Nam Việt. Chính phủ, quốc hội và công luận Mỹ chờ đợi Việt Nam Cộng hòa và riêng cá nhân tôi, thưa Tổng thống kính mến, tôi hi vọng trong cuộc bàn giao giữa tôi và Ngài đại sứ Frederick Nolting vào tháng năm tới, tôi có thể hãnh diện thông báo cho người kế nhiệm rằng nơi mà ông ấy công cán không hề có những chuyện buồn phiền về trình độ dân chủ như các đại sứ Mỹ vẫn thường gặp ở châu Phi hay Trung Đông…”
Durbrow nói như vậy, tay luôn sửa chiếc cà vạt, còn mắt thì ngó thẳng ông.
Láo xược! Ông cố kềm chế. Họ coi ông ngang với Mobutu(1) chăng? Eisenhower, thống tướng, con người hùng của Đệ nhị thế chiến còn chưa dám vô lễ với ông, Kennedy là cái thá gì lại dạy khôn ông?
(1) Sese Seko Mobutu (1930-1997), người thực hiện cuộc đảo chính quân sự 1960, Tổng thống Zaïre 1965-1997.
Đầu óc ông Diệm khá lộn xộn sau buổi sáng đó ở trung tâm Phú Thọ. Ảo tưởng về Kennedy trong ông tan biến. Hóa ra Kennedy chẳng thức thời hơn Eisenhower nữa. Về đến Dinh Độc Lập, ông đi thẳng vào phòng làm việc của Nhu. Nhu vắng nhà, Trần Lệ Xuân tiếp ông.
Lệ Xuân khép nép trước sắc mặt hằm hằm của ông. Chợt, ông cảm thấy thần kinh dịu hẳn. Thì ra, quyền uy của ông không hề sút giảm, cô em dâu lắm lời và rất khôn ranh trước sau vẫn một mực tôn kính ông. Ừ, có vậy mới ra con dâu nhà họ Ngô Đình chứ. Thỏa mãn lòng tự ái, ông cười độ lượng. Trần Lệ Xuân lăng xăng phà trà:
- Anh làm em hết hồn!
Hôm đó, ông phá lệ: trao đổi với cô em dâu lời của Durbrow. Ông đã không lầm. Trần Lệ Xuân cực kì sắc sảo về chính trị. Lệ Xuân ngồi ghé ở xa lông, sau khi khoát thêm chiếc áo choàng. Cử chỉ này càng khiến ông hài lòng, bởi ông nhớ có một lần, ông lững thững đến phòng Nhu - Nhu vắng nhà như hôm nay - Lệ Xuân đón ông trong bộ áo quần ngủ mỏng dính. Ánh sáng trong phòng làm nền và trước ông, cô em dâu cơ hồ không có một tí gì trên người. Ông giận dữ quay lưng:
- Thím ăn mặc sao mà quái gở rứa!
Lần đó, Lệ Xuân khóc, xin lỗi, hứa hẹn.
- Họ ta gia giáo lâu đời. Thím nhớ cho.
Ông vẫn chưa nguôi giận. Nhu phải đưa vợ đến gặp ông, lần thứ hai, kèm theo Ngô Đình Lệ Thủy. Ông không thể giận lâu vì ông rất yêu đứa cháu gái khôn trước tuổi này.
- Theo em, - Lệ Xuân thỏ thẻ - chúng ta chẳng mất gì trong trò chơi dân chủ này, một liên danh ứng cử Tổng thống hay hai, ba, bốn cũng thế thôi. Còn đúng một tuần nữa thì đến ngày niêm yết danh sách các ứng cử viên Tổng thống nhiệm kì hai ta đủ thì giờ để chọn. Càng nhiều đối thủ, thắng lợi của Tổng thống càng vẻ vang.
Ông khẽ lắc đầu. Thật vô lí khi ở Nam Việt lại có ai đó ra tranh cử ngôi Tổng thống với Ngô Đình Diệm. Phải ông chịu nghe lời Ngô Trọng Hiếu… Ông Diệm luyến tiếc - năm 1955, Ngô Trọng Hiếu nêu ý kiến là Hiến pháp ghi hẳn ông đảm đương ngôi vị Tổng thống suốt đời, như Soekarno ở Nam Dương. Thích quá, song ông ngại. Bấy giờ, thế lực ông chưa mạnh. Nhu phản đối, hơn nữa, sạc Ngô Trọng Hiếu một trận với các từ nặng nhất: ngu, đần độn, nịnh bậy… Nhu có quan điểm của chú ấy… Chẳng lẽ người ta hô “muôn năm” mình mà mình lại phải tự xếp ngang một gã phàm phu tục tử, lục lục thường tài nào đó. Ông cảm thấy lòng tự ái bị tổn thương nặng nề.
- Tình thế khác xưa, anh chịu nhún nhường một chút. Đây cũng vì đại cuộc thôi… Suốt đời anh hi sinh cho dân, cho nước, bây giờ hi sinh thêm, càng sáng danh… Chẳng ai lẫn lộn phượng hoàng với gà. Có lúc, chính anh mời Trần Văn Soái làm quốc vụ khanh kia…
Trần Lệ Xuân đánh trúng tim đen ông. “Ừ, thím nói có lí… Năm nớ, Mỹ cần mình, năm ni, mình cần Mỹ.” Ông nhớ phân tích của Nhu sau cuộc đảo chính về tương quan giữa ông và Mỹ. “Chắc phải làm thế rồi, song chọn mấy thằng, thằng nào?”
- Rứa, nên có mấy liên danh? - Ông đột ngột đổi thái độ.
- Dạ, em nghĩ càng nhiều càng tốt.
Diệm trố mắt:
- Răng mà nhiều… Ứng cử Tổng thống chớ ứng cử hàng thịt sao?
- Dạ, tùy anh… nhưng cũng phải bốn, năm coi mới được… - Lệ Xuân một mực dịu dàng.
- Ba thôi! - Diệm quả quyết.
- Dạ, anh định thế nào, nhà em với em làm thế ấy… Ba cũng được. Đỡ hao tốn.
- Mà thằng mô?
- Dạ, nếu chọn bọn chánh khách bẻm mép thì e gây khó cho ta. Em tính chọn những tên tuy hào nhoáng song chỉ là thùng rỗng…
- Hừm! - Diệm xua tay - Tôi đi tranh cử với bọn thùng rỗng sao?
- Dạ, thùng rỗng là theo nhận định của chúng ta. Anh biết Hồ Nhật Tân.
- Biết! Nhân sĩ có tiếng.
- Dạ, Hồ Nhật Tân cùng đứng liên danh với Nguyễn Thế Truyền…
- Ừ, được. Ông Truyền cũng là nhân sĩ.
- Dạ, liên danh kia gồm Nguyễn Đình Quát và Nguyễn Thành Phương…
- Không được! Thằng Quát chẳng ai biết, thằng Phương sao tranh cử với tôi? Tôi chưa bỏ tù hắn đã là may cho hắn… - Diệm sừng sộ.
- Thưa anh, ông Tân, ông Truyền thuộc lớp trước, còn ông Quát, ông Phương thuộc lớp sau… Thế mới… bien orchestré(2). Vả lại… - Lệ Xuân cười thật có duyên.
- Vả lại, sao?
- Vả lại ông Phương nhận tiền rồi.
- Nhận tiền? Tôi không hiểu.
- Thưa anh tiền mướn các liên danh. Như chi phí lót đường vậy… Anh tranh cử với Phương càng khiến người Mỹ kính phục: anh bình dân.
Trần Lệ Xuân đã thuyết phục được Diệm
(2) Phối nhạc tốt.
*
Nhân Tết Nguyên Đán Tân Sửu, Ngô Đình Diệm kí sắc lệnh thả một số người thuộc nhóm Caravelle liên quan với cuộc đảo chính. Đáng lẽ Diệm còn có thể thả nhiều hơn nếu đại sứ Mỹ không quá nồng nhiệt với những kẻ bị bắt. Durbrow gợi ý với ông ta đến ba hay bốn lần về việc nên “trả tự do.” Ông ân xá và chỉ ân xá theo ý ông. Thế nào là trả tự do? Chúng làm loạn, ông gông cổ chúng, thế thôi… Thả Phan Quang Đán, Trần Văn Hương ư? Không đời nào! Chúng phải ra tòa!
Ngô Đình Nhu không sao lay chuyển nổi ý kiến đã thành cố chấp của Diệm. Với Nhu, cuộc đảo chính 11-11 đánh một đòn mạnh vào uy thế của Chính phủ, nghiêm trọng hơn vụ Bình Xuyên, Buôn Mê Thuột nhiều lần. Đây là sự việc từ nội bộ chế độ, từ quân đội, hơn nữa, từ binh chủng tin cậy nhất. Dẹp yên bạo loạn bằng kế hoãn binh - nói toạc ra, bằng sự lừa phỉnh như đối với Ba Cụt năm xưa qua cò mồi Nguyễn Ngọc Thơ, lần này qua cò mồi Lê Văn Tỵ - thêm một vết đen trong lịch sử nền Cộng hòa. Cái cốt lõi nhất đã đạt, tức là cuộc đảo chính đã bị dập tắt, phải vớt vát sĩ diện bằng thái độ khoan dung. Nhu rất muốn đưa một số người “nhẹ dạ nên lầm đường lạc lối” ấy -