Nàng dáng dấp phong lưu khoé miệng hé xuân nồng, tự tự nhiên nhiên, thần thái nhàn nhã bước qua cánh cửa Nguyễn Tu Chân vừa mở, đến bên kia bàn, tươi tươi tắn tắn thốt: “Thì ra chàng là Khâu Cửu Sư”.
Khâu Cửu Sư đứng dậy còn chưa kịp đáp trả, nàng lại xoay người về phía Nguyễn Tu Chân vừa về chỗ ngồi: “Nếu tôi đoán không lầm, vị này nhất định là mưu sĩ hàng đầu của Đại Hà Minh ‘Sách Sư’ Nguyễn Tu Chân Nguyễn tiên sinh”. Tiếp đó không chút khách khí ngồi bên kia bàn đối diện Khâu Cửu Sư.
Khâu Cửu Sư không dám nhìn sang Nguyễn Tu Chân, vì sợ làm cho gã hoài nghi, mình tự biết mình, giây phút Bách Thuần bước ra khỏi xe ngựa, cả đất trời liền biến thành khác hẳn, ánh dương tựa như sáng hơn một chút, hiện tại đối diện nàng, càng bừng tỏa hơn nữa, hắn lại không muốn Nguyễn Tu Chân nhìn thấu hắn. Ài! Phải làm gì đây? Phòng tuyến của hắn đang lọt vào bến bờ sụp đổ nguy hiểm.
Lúc này tiểu nhị hoang mang tiến vào hầu, đem thêm chén đũa cho Bách Thuần, hai người thừa cơ ngồi xuống.
Nguyễn Tu Chân bưng bình trà, châm đầy chén của Bách Thuần.
Sau khi tiểu nhị thoái khỏi sương phòng, Khâu Cửu Sư đằng hắng một tiếng, nói: “Đêm hôm qua...”.
Bách Thuần nhẹ nhàng thốt: “Đương nhiên là có chuyện bận, đúng không? Hai nhân vật võ lâm giậm chân có thể làm chấn động Đại Giang, cùng nhau đến Lạc Dương, khẳng định không phải để du sơn ngoạn thủy, hoặc đến Hồng Diệp Lâu lãng phí thời cơ”.
Khâu Cửu Sư và Nguyễn Tu Chân cuối cùng đã hiểu, mỹ nữ khêu gợi này không phải đến đây để uống trà đơn giản như vậy, mà là đến tìm người.
Nguyễn Tu Chân chợt phát giác dưới tình huống này, thật không đến phiên gã xen miệng, hơn nữa gã vẫn còn đang tê dại sởn gai ốc.
Khâu Cửu Sư đâu muốn làm tổn thương Bách Thuần, không muốn nàng không vui, tức nhất là hắn không có cách nào nói ra nguyên nhân thật sự, nhất thời trong lòng mâu thuẫn đến cùng cực, cười khổ: “Nếu ta nói với cô nương rằng số phận khiến cho ta không có cách nào đi gặp cô nương, cô nương nghĩ thế nào?”.
Nguyễn Tu Chân bàng quan thầm la hỏng bét, gã có nhận thức sâu xa về con người của Khâu Cửu Sư, vừa nhìn thấy thần tình của hắn, biết liền hắn đang ở trạng thái “không sợ”, song nhãn của hắn bắn ra tinh quang nhiếp hồn người, tình trạng như vầy, Nguyễn Tu Chân trước đây đã từng thấy qua ba lần, lúc Khâu Cửu Sư đối diện kình địch mạnh mẽ, sẽ vọt lên trạng thái đỉnh điểm, bình tĩnh chỉ huy thủ hạ tác chiến, mỗi lần đều đạt được thắng lợi huy hoàng. Giả như Khâu Cửu Sư coi Bách Thuần là “kình địch” tình trường, muốn “chinh phục” nàng, vậy bọn họ phải thua vào tay địch nhân vô hình trong cõi U minh rồi.
Tình huống hiện tại Nguyễn Tu Chân gã càng không nên xen tay, gã còn ngồi ở đây đã là không biết điều lắm rồi.
Bách Thuần đôi mắt đẹp sáng lên, dịu giọng: “Số phận! Thật ra là số phận cửa nào? Khâu công tử có thể nói rõ hơn một chút không?”.
Nguyễn Tu Chân thầm thở dài một hơi, giơ tay vỗ vỗ vai Khâu Cửu Sư, đứng dậy đẩy cửa đi ra.
Đợi cửa đóng lại, Khâu Cửu Sư thản nhiên đáp: “Khâu Cửu Sư sở dĩ có thể không sợ gì hết, phóng tay mà làm, đều là vì trong lòng hoàn toàn không có vương vấn trói buộc. Hiện tại thiên hạ vạn dân đang lọt vào dầu sôi lửa bỏng, kẻ có chí làm sao có thể tụ thủ không lý gì tới, đó là số phận đã định sẵn cho ta”.
Bách Thuần nở một nụ cười như ánh dương phá tầng mây mù hiển hiện, ngời sáng chiếu rọi khắp mặt đất, dịu dàng thốt: “Thì ra là vậy, bất quá nô gia đã nghe nói chàng là người như vậy từ lâu rồi, không phải vậy mới là kỳ quái đó. Nhưng có gì phải sợ vậy? Nô gia lại không phải vừa gặp đã chung tình với chàng, không phải không gả cho chàng không được, chỉ là thấy chàng trượng nghĩa phù trợ, anh hùng quá sức, muốn kết giao với chàng, tiến một bước quen biết với chàng. Đời người phong phú nhiều vẻ mà! Nếu chỉ có một mục tiêu đơn nhất, bỏ lỡ cái khác, làm sao đúng với mình được? Hiềm kỵ của Khâu công tử đâu có tất yếu, chàng thích đến lúc nào, đi lúc nào, nô gia sẽ không nói nửa lời oán thán. Cho dù bọn ta thân thiện da thịt, nô gia chỉ coi đây là một đoạn lữ trình động hồn trong cuộc đời, sẽ không gào sống gào chết, đó tuyệt không phải là tác phong của nô gia. Khâu Cửu Sư dũng cảm vô địch đâu phải là kẻ khờ!”.
Khâu Cửu Sư nghe vậy trợn tròn mắt, cơ hồ không có cách nào phản ứng. Mỹ nữ can đảm trực tiếp như vầy, hắn lần đầu đụng phải, cảm giác trước đây chưa bao giờ có trào dâng lên đầu. Tuy từ xưa đến nay hắn không để ý tới tình cảm nam nữ, nhưng hắn tuyệt không phải là quân tử điềm tĩnh ngồi yên, sức dụ hoặc của Bách Thuần đối với hắn giờ phút này đang gia tăng gấp bội. Hắn cười khà khà nói: “Vấn đề ở chỗ cô nương có lẽ là người như vừa nói, coi luyến ái nam nữ như du khách qua đường. Nhưng ta lại sợ xông vào ải tình, đặc biệt là vào lúc này ở chỗ này. Cô nương cười ta khờ cũng được, cái gì cũng được, ta bây giờ cần phải khắc chế lấy mình, xin cô nương tha thứ cho”.
Bách Thuần vui vẻ thốt: “Được biết trong lòng công tử không phải không có nô gia, còn làm cho Khâu Cửu Sư đó giờ không sợ gì hết lòng sinh ý sợ, Bách Thuần có cảm giác vén gạt mây mù nhìn thấy trời xanh. Đêm hôm qua nô gia một mực chờ đợi chàng, thứ tâm tình khốn khổ đáng thương đó thật không biết có thể dốc tỏ cùng ai. Chàng muốn lo đại nghiệp nam nhi, không để ý tới tư tình nam nữ, chính là chỗ nô gia thưởng thức chàng nhất. Nhưng chàng lạ ghê! Sao có thể không nghĩ tới mặt mũi của con gái người ta như vậy, ít ra phái người đến thông tri cho tôi biết, tìm một lý do đường hoàng, để người ta hạ đài tốt đẹp. Hiện tại hại cho tôi từ chối mọi người, lại đợi không không, bị người ta chê cười”.
Khâu Cửu Sư có cảm giác đấu không lại nàng. Thần tình hờn mát nũng nịu của nàng quả là động hồn tới cực điểm, mà phương thức giọng điệu ngang ngược không nói lý lẽ của nàng càng làm cho hắn cảm thấy kích thích mới lạ, sẵn sàng chịu đựng. Hắn cười khổ nói: “Mặt đó là ta không đúng, ta xin chịu lỗi với cô nương ở đây”.
Bách Thuần cả người như phát sáng phát nóng, làm cho nàng càng tươi đẹp ngời ngời, đẹp đến mức không có gì bì được, mê hồn nhất là nàng tràn trề sinh khí khỏe mạnh, ngọc dung nét vẻ phong phú đa dạng, ánh mắt như có thể nói chuyện.
Khâu Cửu Sư cảm thấy toàn thân nổi da gà, thầm kêu không hay, “sức đề kháng” của mình càng lúc càng bạc nhược, biết rõ bất kể sau này sự tình phát triển theo bất cứ phương hướng nào, hắn khẳng định không quên được nàng.
Bách Thuần dâng một nụ cười mê hồn cho hắn: “Chịu lỗi làm sao có thể chỉ nói bằng miệng không không vậy được?”.
Khâu Cửu Sư thoát miệng hỏi: “Vậy thì bằng cái gì?”.
Lời nói ra khỏi miệng lập tức hối hận, nếu nàng nói đêm nay muốn hắn đến Hồng Diệp Lâu gặp nàng, hắn phải làm sao? Lại làm sao đối diện Nguyễn Tu Chân đây?
Vào giờ phút đó, Ngũ Độn Đạo không còn tồn tại trong đầu óc của hắn nữa.
Bách Thuần đáp như chuyện đương nhiên: “Xin lỗi đương nhiên phải phạt rượu, vậy tôi mới có thể xuống nước một bậc”.
Khâu Cửu Sư thất thanh: “Uống rượu?”.
Bách Thuần lộ vẻ không hiểu, nhíu chặt đôi mày, ngạc nhiên hỏi: “Uống rượu có vấn đề gì? Lẽ nào Khâu Cửu Sư tung hoành thiên hạ cũng không thể uống rượu, chưa từng rượu thấm đầu môi?”.
Khâu Cửu Sư lần này thật sự á khẩu, đang không biết làm sao để ứng phó mỹ nữ phong thái say đắm hồn người, kiểu cách riêng biệt khác người này, cửa phòng chợt đẩy tung ra.
Nguyễn Tu Chân xông thẳng vào, thần sắc nghiêm trọng: “Tiểu tử kia không thấy đâu nữa”.
Nhất thời tâm tưởng của Khâu Cửu Sư không có cách nào kéo rời khỏi Bách Thuần, phải một hồi sau mới ngạc nhiên hỏi: “Tiểu tử nào?”.
Nguyễn Tu Chân nhìn thấy Bách Thuần đang trừng trừng nhìn gã, hiển lộ nụ cười có lỗi, đáp: “Là tiểu tử bán mật rắn, có người nhìn thấy hắn sáng sớm hôm nay đội sọt tre bỏ đi qua cửa thành nam”.
Khâu Cửu Sư vụt đứng dậy, như từ tiên giới rớt xuống phàm trần.
o0o
Tiết Đình Hao từ từ thốt: “Theo sử ký nhà Mâu Xuyên ghi lại, quân Sở tàn sát dân chúng trong thành để báo thù sau khi thành bị phá, lục lọi tìm kiếp Sở hạp khắp nơi mà không có thu hoạch, lại phóng hỏa đốt thành, thiêu trọn bảy ngày bảy đêm rồi mới bỏ đi”.
Cô Nguyệt Minh không hiểu: “Thống soái của quân Sở sao lại làm bậy vậy, đáng lẽ nên giữ mạng sống tra khảo từng người, sao lại hỏi không được nơi hạ lạc của Sở hạp chứ. Ủa!”.
Tiết Đình Hao nhìn sang phía Cô Nguyệt Minh đang lộ thần sắc kinh ngạc, gật đầu: “Thí chủ đã nghĩ đúng chỗ có vấn đề rồi. Lúc bọn ta tiến vào cổ thành, cổ thành rõ ràng có dấu tích bị lửa dữ thiêu đốt mãnh liệt, tất cả mọi phòng ốc đều cháy tới nóc, lại trải qua sự hủy hoại của năm tháng, tường thành kiên cố đã sụp lở quá nửa, nhưng dưới đáy sơn thành, bọn ta phát hiện một thông đạo, tận cuối là một cánh cửa đồng còn nguyên, trong cửa là một không gian rộng rãi sâu cỡ năm trượng, chắc đã từng đục đá dưới đáy sơn thành xây nên, bên trong có bài trí một cái giường đá”.
Cô Nguyệt Minh tâm thần không biết làm sao, bị lời miêu tả của Tiết Đình Hao thu hút quá sức, chấn động hồn phách, thở dài một hơi: “Các ngươi có thể tìm được, quân Sở sao lại có thể sơ suất bỏ qua như vậy, thật là bất hợp lý”.
Tiết Đình Hao thốt: “Đó là chỗ ta nói không hợp tình lý. Trong mật thất tựa lăng mộ đó, có hai bộ hài cốt, một ngồi trên giường, người kia quỳ phục bên cạnh giường đá, ôm nhau thật chặt, y phục của bọn họ đã rách nát, chạm vào là hóa thành tro bụi, nhưng hài cốt quỳ phục bên giường đá vẫn dùng hai tay bưng Sở hạp, bọn ta là lấy Sở hạp từ trên tay người đã chết ngàn năm đó”.
Cô Nguyệt Minh cảm thấy toàn thân băng lãnh, thầm nghĩ có phải mình sợ không? Nhưng có gì đáng sợ chứ? Y hỏi: “Sau đó có xảy ra chuyện gì không?”.
Tiết Đình Hao thần tình hoài niệm chuyện xưa, đáp: “Nghĩ lại lúc sau khi lấy được Sở hạp, tựa như có một thứ lực lượng không tránh khỏi thúc giục bọn ta đi làm như vậy. Tiền Thế Thần thả neo ba chiếc chiến thuyền ở bến tàu dựng tạm phía bờ đông Tương Thủy, chỉ cần bọn ta đem Sở hạp lên thuyền, lập tức khởi hành, sau khi đến Động Đình Hồ ra Đại Giang lên Vận Hà, chở Sở hạp về lại kinh sư, vậy là đã đại công cáo thành rồi”.
Cô Nguyệt Minh không hiểu: “Sở hạp quan hệ trọng đại, trong đầm lại có sói hoang hoành hành, Tiền Thế Thần tại sao không điều binh vào đầm, bố phòng dọc đường, coi như là kế vạn toàn?”.
Tiết Đình Hao đáp: “Đó vốn là ý tưởng ban đầu của bọn ta, lại bị Mâu Xuyên cực lực phản đối, y nói nếu đông người tạp nhạp, sẽ làm cho thần linh trấn thủ cổ thành phát giác. Bây giờ hồi tưởng lại, y chắc là có lòng riêng khác. Ngã Phật từ bi”.
Cô Nguyệt Minh biết hắn đang nói đến chỗ then chốt nhất, không hỏi nữa, để hắn nói tiếp.
Tiết Đình Hao thốt: “Sở hạp vào tay, Phu đại ca ra lệnh cho ta lập tức đi thông tri cho Tiền Thế Thần ở bờ đông Tương Thủy biết, kêu y dẫn binh vào đầm tiếp ứng. Ta lập tức rời khỏi cổ thành, lúc đó là sau Ngọ, đầm lầy bị sương mù bao bọc, không biết sao ta không ngờ lại lạc đường, đi kiểu nào cũng không có cách tới được Tương Thủy, la bàn của ta như bị hư, không ngừng xoay chuyển, làm cho ta không có cách nào định hướng, đến khi ta bỗng đụng phải một bầy dã lang, ta không đè nén được cơn sợ hãi trong lòng, quay đầu về cổ thành, nào hay... nào hay làm sao cũng tìm không ra, ta còn nghĩ mình đi sai đường, tìm kiếm tứ xứ, cái tìm được lại là thi thể của bọn họ, bao gồm cả Mâu Xuyên, chỉ không thấy Phu đại ca”.
Cô Nguyệt Minh hỏi: “Bọn họ có phải đã trúng kịch độc không?”.
Tiết Đình Hao gật đầu: “Ai ai cũng thất khiếu rỉ máu, quả là tình huống đã trúng kịch độc. Lúc đó ta tâm thần tán loạn, một mặt ta khẳng định Phu đại ca không phải là hạng người đó, mặt khác lại cảm thấy chỉ có Phu đại ca mới có khả năng hạ độc với bọn họ, đại ca sai ta đi trước là vì niệm chút thân tình. Ài! Đầu óc ta không có cách nào suy nghĩ như thường, chỉ biết ở lại chỉ có một con đường chết, Hoàng thượng chịu tha thứ cho ta, Phụng công công cũng không chịu tha thứ”.
Cô Nguyệt Minh vụt tỉnh ngộ: “Cho nên đại sư