Đợi một hồi, cửa lớn “kẹt” một tiếng, lộ ra một cái cửa song nhỏ, một hán tử thò đầu nhìn qua song, nhìn lên nhìn xuống hắn hai lượt, bực bội hỏi: “Ngươi không nhìn thấy cửa đóng sao? Bây giờ là giờ gì, muốn quang cố thì đợi đến sập tối hãy đến”.
Ô Tử Hư phát ra tiếng “chặc chặc” lạ lẫm, cười lạnh thốt: “Nói vậy mà nói được sao? ‘Họa Tiên’ Lang Canh ta từ kinh sư sang quý hạ mình đến cái phủ quận bé xíu của ngươi, mấy tên canh cửa các ngươi căn bản không đủ tư cách nghênh tiếp ta, mau kêu ông chủ của ngươi ra, bảo đảm lão phải lễ độ nghênh đón”.
Đại hán giữ cửa không nghĩ gì hết, phá miệng mắng lớn: “Họa Tiên con mẹ ngươi, ta thấy ngươi không khác gì Họa Khất thì có, còn dám chọc giận lão tử nữa à”.
Ô Tử Hư thấy hù gã không được, liền cải biến sách lược, ôm quyền thi lễ: “Thất kính thất kính! Thì ra vị đại ca này là người tính tình ngay thẳng, ta kính trọng nhất là hán tử trực tính như đại ca. Làm phiền đại ca thông truyền một tiếng, nói đệ nhất diệu bút ở kinh sư Lang Canh đã đến, bảo đảm ông chủ của ngươi sẽ không thất vọng”. Tiếp đó hạ thấp giọng: “Sau khi ta kiếm được ngân lượng, sẽ tặng vài chục lượng cho đại ca ngươi sử dụng, nếu bị ông chủ của ngươi đá ra, đương nhiên không liên quan gì tới đại ca ngươi, đây là mối kiếm tiền chắc chắn, tôn ý của đại ca thế nào?”.
Đại hán giữ cửa chưa từng thấy ai trước xấc xược sau cung kính, lưỡi không xương nhiều đường lắt léo như vậy, mau mắn đổi mặt đến mức cả gã là kẻ đã quen lăn lộn ở thanh lâu cũng phải thẹn mình không bằng, thừ người ra, nhất thời không biết nên dùng thái độ gì để đối đãi hắn.
Ô Tử Hư thấy gã động lòng, đến gần một chút: “Vốn ta cùng không có hứng thú đến ứng thí làm họa sư, chỉ vì nhìn thấy mấy tên vô dụng hết kẻ này tới kẻ khác bị đá ra, làm mất hết mặt mũi nghề nghiệp của bọn ta, vì để trùng chấn uy danh hành nghề của bọn ta, khiến cho quý lâu không còn ngộ nhận nghiệp vụ của bọn ta không có kẻ có năng lực, cho nên đến gõ cửa. Ài! Để chứng minh thành ý của ta và sự tôn kính đối với đại ca ngươi, trước hết xin dâng hai lượng bạc, thỉnh đại ca tiếp nhận cho”. Vừa nói, tay phải vừa rút ngân lượng trong mình ra, đưa qua cái song nhỏ.
Đại hán giữ cửa cũng không nghĩ ngợi gì, tiếp nhận liền.
Ô Tử Hư lòng nhẹ nhõm, hắn đến ứng thí vào thời điểm không thích hợp như vầy là vì càng trốn mau vào Hồng Diệp Lâu thì càng an toàn, hắn rõ tâm trạng của người trong thanh lâu nhất, chỉ có tiền mới đả động được bọn họ.
Đại hán giữ cửa lập tức vụt đổi thái độ: “Đừng trách ta không cảnh cáo ngươi trước, ngươi qua được cửa ải ông chủ vẫn vị tất đã qua được cửa ải Bách Thuần tiểu thư, tuyệt không thể nói cho bất cứ một ai biết ta đã thu hai lượng bạc của ngươi đó”.
Tiếp đó đóng sập cái song nhỏ lại.
Ô Tử Hư lòng ngầm đắc ý, đây là hậu quả tất nhiên, thông truyền một tiếng mà bỏ túi được hai lượng bạc, không ai có thể cự tuyệt.
Còn nghĩ phải đợi một hồi, nào hay “kẹt” một tiếng, cửa lớn hé ra chút ít, đại hán giữ cửa thò đầu ra, nhìn lên nhìn xuống gã vài lượt, khẽ quát: “Tiến vào đi!”.
Ô Tử Hư mừng khấp khởi, vội luồn vào trong.
o0o
Quý Nhiếp Đề một ngựa đi trước, dẫn thủ hạ toàn tốc phi nhanh. Bọn họ đã đổi ngựa hai lần, từ đây đến Vân Mộng Trạch, y đã thiết trí dịch trạm lâm thời cho quan viên, nhằm chuẩn bị bất cứ lúc nào cũng có thể dùng phương pháp nhanh nhất để đến Vân Mộng Trạch.
Y dám khẳng định Tiết Đình Hao chạy không thoát thiên la địa võng của y, nhưng y lại không có tới một chút xíu cảm giác hưng phấn, tiếp nhận nhiệm vụ lần này, y từng tranh luận kịch liệt với Phụng công công, cuối cùng đương nhiên không gàn hơn Phụng công công được. Nhưng mãi cho đến giờ phút này, Quý Nhiếp Đề vẫn nghĩ mình đúng, Phụng công công chẳng phân nặng nhẹ. So với Đại Hà Minh, Sở hạp chỉ là chuyện nhỏ không cần phải nói tới. Hiện tại uy hiếp lớn nhất đối với triều đình là Đại Hà Minh. Đem nhân lực vật lực lãng phí tìm kiếm Sở hạp, là bỏ gốc mà đuổi theo ngọn. Bất kể bên trong Sở hạp giấu vật gì, chỉ là vật ngoài thân, mà bảo vật gì đi nữa cuối cũng cũng không đáng một xu, bởi nếu bị Đại Hà Minh thành công lật đổ triều đại, y và Phụng công công đều phải chết không đất chôn thân, bảo vật đối với người chết có hữu dụng gì nữa chứ? Trừ làm vật chôn chung ra.
Quý Nhiếp Đề căn bản không tin chuyện cổ thành. Nhưng y cũng không có cách nào tìm một giải thích hợp lý cho chuyện xảy ra năm xưa.
Y là lần thứ ba đến Vân Mộng Trạch. Sau hơn một canh giờ, bọn họ sẽ đến bến đò Tương Quân Độ của Tương Thủy, rồi dùng bè gỗ qua sông.
Y thật hy vọng có thể bắt sống Tiết Đình Hao, từ miệng của hắn tra ra chuyện xảy ra năm xưa, y rất muốn biết chân tướng, bởi y biết rõ Phu Mãnh tuyệt không phải là hạng người như Phụng công công nghĩ. Y và Phu Mãnh từng là bằng hữu tốt nhất.
o0o
Diễm Nương dựa ngã mình trên ghế, hưởng thụ khoảng thời gian thỏa dạ nhất hàng ngày. Lúc này ả vừa tỉnh ngủ, tinh thần sung mãn, sau khi rửa ráy là đến Quý Tân sảnh của Hồng Diệp Lâu, tiếp kiến các nhân viên chấp sự trong thanh lâu, nghe kể tình huống trong ngày, phân phát chỉ lệnh, để mọi sự có thể tiến hành thuận lợi sau khi mở cửa.
Hai tên bộc phó cường tráng đang xoa bóp cho ả, máu huyết lưu thông. Cũng chỉ có vào giờ này, ả cảm thấy mọi sự nắm chắc trong lòng bàn tay của mình.
Lúc Đàm Đức giữ cửa tiến vào nói cho ả biết lại có họa sư đến, phản ứng ban đầu của ả là muốn kêu Đàm Đức đuổi hắn đi, đến khi Đàm Đức nói họa sư kia tựa như khác mấy tên trước đây, là danh sư từ kinh sư đến, ả cuối cùng miễn cưỡng đáp ứng chịu gặp hắn.
Toàn bộ kế hoạch là do Bách Thuần nghĩ ra, là dạm mời họa sư cao minh chọn tám vị cô nương đỏ nhất để vẽ chân dung, đến lúc Hồng Diệp Lâu mở điển tiệc ăn mừng mười năm ngày thành lập sẽ treo hai bên Hồng Diệp đường, để cho khách nhân viết đôi dòng thi phú bên bức họa. Theo ý nghĩ của Bách Thuần, chỉ cần có một bài thơ trong số truyền tụng bốn phương, có thể nâng Hồng Diệp Lâu lên địa vị tầm cỡ Lạc Dương Lâu, như Lạc Dương Lâu trong “Lạc Dương Lâu ký”.
Chỉ tiếc không có họa sư nào qua được cái ải Chu Bàn Tử, nói gì đến Bách Thuần yêu cầu còn cao hơn nữa.
Hiện tại khoảng thời gian đến khánh điển còn chưa đến mười ngày, toàn sự vụ đâu thể nào trì trệ được, nếu quả họa sư này lại không ra gì, chỉ còn nước bỏ hết kế hoạch.
Đàm Đức dẫn họa sư tiến vào sảnh đường, Diễm Nương vừa liếc thấy, lập tức thầm chửi.
Phương pháp ả nhìn nam nhân rất giản đơn, chỉ chia làm bốn loại người, có tiền hay không có tiền, đẹp trai hay không đẹp trai. Mà căn cứ theo kinh nghiệm phong phú tích lũy bao lâu nay của ả, sự phân loại của ả không sai vào đâu được. Bất kể là loại người nào, cuối cùng cũng có căn tính xấu, cho dù y bề ngoài đạo mạo cao cả tới cỡ nào, hay bộ dạng như một sắc quỷ, không có căn tính xấu thì đâu có đến thanh lâu ăn xài ngả ngớn.
Họa sư trước mắt có thể quy vào loại dễ nhìn, lại khẳng định là nghèo khố rách áo ôm, cho nên mới ngàn dặm xa xôi từ kinh sư đến đây. Ả không nhịn được mắng thầm, là vì khám phá tên tiểu tử này là một con quỷ hiếu sắc, hơn nữa là tay già dặn trăng hoa, giây phút đôi mắt láo liên ve vãn kia vừa nhìn thấy ả, liền tuần sát trên dưới, trước hết căng mắt nhìn đùi và hông ả, cuối cùng mới nhìn lên mặt ả.
Diễm Nương cố ý giả như không nhìn thấy hắn, vẫn gục mặt xem tờ danh sách rượu thịt đồ ăn trên tay.
Họa sư cúi mình thi lễ, cung kính thốt: “Kinh thành ‘Họa Tiên’ Lang Canh, đặc biệt đến thỉnh an chào hỏi đại quản gia”.
Diễm Nương thầm nghĩ động tác của tên tiểu tử này khá là tiêu sái dễ nhìn, giọng nói lại rất êm tai, đáng tiếc vẫn chỉ là một họa sư nghèo hèn tự cho mình là phong lưu, vẫn không thèm nhìn hắn, cau mày: “Họa Tiên Họa Thánh gì, là ngươi tự thếp vàng trên mặt mình hay là người ta dâng tặng cho ngươi đó?”.
Lang Canh không chút hổ thẹn, chằm chặp mê mẩn nhìn bộ ngực đầy đặn của ả: “Tôi là Họa Tiên hay là cây cọc bôi sáp bạc, đại quản gia thử là biết liền, bảo đảm, hàng thiệt giá thiệt, già trẻ gì cũng không chê”.
Diễm Nương xém chút đã không nhịn được cười phá lên, miễn cưỡng nghiêm mặt, mắng: “Mặc ngươi là hàng gì, sao dám đùa cợt với lão nương, bộ muốn ta quét ngươi ra sao?”.
Lang Canh hoang mang: “Đại quản gia đừng giận. Tại hạ đâu dám có lỗi với nữ nhân xinh đẹp, xin đại quản gia tha thứ”. Lại nhe hai hàm răng đều đặn trắng như tuyết, nụ cười sáng lạn thốt: “Bất quá đại quản gia có thể yên tâm, con người của tại hạ công tư phân minh nhất, công tác là công tác, hiểu nhất là giữ quy củ. Tại hạ chuyến này đến xin làm họa sư là vì muốn đem lại niềm tự hào cho kẻ dùng hội họa để sinh sống bọn tôi, không để bị người ta coi là hạng lường gạt”.
Diễm Nương bực bội: “Ba tháng nay ta đã gặp không ít hơn ba chục tên cùng nghề với ngươi, có một tên khoe khoang mình là thiên hạ vô địch, vẽ lại toàn là thứ không vào đâu đáng xấu hổ. Ngươi bớt lải nhải trước mặt ta đi”.
Trên sự thật ả đã tăng chút hảo cảm đối với tên họa sư háo sắc này, hắn lộn vòng luồn cúi khen mình đẹp, nịnh bợ rất đúng chỗ.
Lang Canh không những không để ý sự châm chọc của ả, còn tựa như chịu thụ giáo quá sức, mặt dày thốt: “Tài vẽ của tại hạ ra sao, không có cách nào gạt được đại quản gia, chỉ cần đại quản gia kêu người đem đến giấy bút thủy mặc, để tại hạ phẩy bút vẽ một tấm mỹ nữ nằm cho đại quản gia, đại quản gia biết liền tại hạ tài tình tới cỡ nào”.
Diễm Nương cuối cùng đã nhìn hắn, trừng mắt nói: “Đừng bày trò quái quỷ nữa. Cái ông chủ yêu cầu là vẽ hình mỹ nhân màu mè, không có nhan liệu làm sao vẽ được? Ngươi không phải đến đây lộn xộn đó chứ?”.
Lang Canh chắp hai tay sau lưng, nghiêm nghị thốt: “Chỉ cần ông chủ lớn của quý lâu thông hiểu nghề họa, có thể nhận ra công phu của tại hạ từ tranh họa thủy mặc!”.
Diễm Nương thấy bị hắn lẩn quẩn tốn không ít thời gian, không còn hứng thú lắng nghe nữa, ngắt lời hắn: “Ngươi cút ra ngoài cửa đợi ta phát lạc”.
o0o
Vô Song Nữ dắt Hắc Nhi theo, cước bộ nặng nề rời khỏi Ban Trúc Lâm, thi thể của cữu cữu đặt trên lưng ngựa đã được nàng dùng áo ngoài bao lại.
Dưới những tia sáng còn rơi rớt lại của ánh mặt trời đang lặn mình, nàng bước trên con đường dịch đạo xuyên qua cánh rừng cổ thụ đến vùng đầm lầy, lòng bần thần trống trải. Nàng ôm hy vọng đến đây, bây giờ tất cả mọi hy vọng đều đã hóa thành bọt nước, trước đây nàng một mực tin tưởng có thể khám phá sự tình, hiểu rõ chân tướng, đến giờ phút này mới biết đó chỉ là ý tưởng mong mỏi một chiều.
Nàng từng dự tưởng vô số khả năng, lại chưa từng nghĩ tới sau khi đến chỗ muốn đến lại tìm thấy cữu cữu bị người ta hạ độc hại chết. Cha đã rủi nhiều may ít, người có thể là thân nhân duy nhất còn lại của nàng lại đã bỏ nàng ra đi, trời cao tại sao lại vô tình với mình như vậy? Kiếp trước mình có phải đã thắt kết oan nghiệt không giải khai được, đến đời này cần phải chịu đựng một mình?
Từ khi cữu cữu đem phó thác nàng cho An Giới, nàng ngày đêm nỗ lực học tập thao luyện, từ công phu nhào lộn, kỹ xảo dùng miệng, trò đu nhảy, xoay mình như chong chóng, múa kiếm, đi trên xà, đi trên dây, leo thang, nhún đàn hồi, diễn kịch, cho đến ảo thuật khói lửa và ảo thuật đèn đuốc, thành tựu trên mỗi một món đều khiến cho một An Giới xưng là “vua kịch xiếc” cũng phải trố mắt không theo kịp, thiên phú của nàng về mặt đó đâu còn phải ngờ vực. Chỉ tức mọi nỗ lực đều vì chuyện cữu cữu bị hại mà có cảm giác buồn xót lãng phí hết tâm cơ, trôi theo dòng nước.
Chuyện duy nhất nàng có thể làm hiện giờ là giết chết hung đồ đã hạ độc hại cữu cữu, khẳng định là tên ưng khuyển của triều đình đã một mực từ Đại Giang truy tung mình đến Vân Mộng Trạch, bởi nàng phát hiện ra dấu chân của y ngoài Tương Phi Từ, bất kể y trốn đến chân trời góc biển nào, nàng phải bắt y lấy mạng đền món nợ máu này.
Vô Song Nữ vụt dừng lại, đôi mắt sáng loang loáng, trừng trừng nhìn về đằng trước.
Một đại hán khôi ngô niên kỷ trên dưới bốn chục, lưng đeo trường kiếm, thân vận y phục vải gai, đi chân không, tướng mạo giản dị đứng chặn phía trước, sự xuất hiện của hắn đột ngột vô cùng, vừa hoa mắt một cái, đã bị hắn chặn đường. Con người này thân thể tràn đầy một thứ hơi hám yêu tà, thâm trầm lãnh tĩnh đến mức tựa như không có tình cảm con người, mục quang băng lãnh, bất kỳ một ai bị hắn chăm chú nhìn cũng phải phát lãnh rùng mình.
Vô Song Nữ lạnh lùng thốt: “Cút sang một bên! Nếu không đừng trách ta không khách khí”.
Kẻ chặn đường chính là Qua Mặc, hắn là đại hành gia truy tung, đi theo dấu chân của Cô Nguyệt Minh, nàng và Hắc Nhi đuổi thẳng đến đây, thầm nghĩ nếu tử thi trên lưng ngựa là Cô Nguyệt Minh, vậy thì quá là lý tưởng. Nghe tiếng tâm tình cực kỳ khoái trá đáp: “Chỉ cần cô nương cho ta xem người nằm trên lưng ngựa là ai, bản nhân quay đầu đi liền, tuyệt không làm khó dễ”.
Vô Song Nữ một tay tựa như muốn chỉnh sửa mái tóc đẹp, hơi lướt qua tóc mai, khẽ quát: “Ta nói cút sang một bên”.
Qua Mặc lộ nụ cười âm hàn.
Vô Song Nữ vụt phất tay tới trước, ánh sáng nhoáng lên, nhắm ngay mặt Qua Mặc bắn tới.
Qua Mặc đứng bất động, tay dời lên trên, kẹp tia sáng giữa ngón cái và ngón trỏ, rồi kéo đến trước mũi nhìn kỹ, không ngờ là một thiết châm đen bóng, vốn cắm bên đầu tóc của Vô Song Nữ, sẵn sàng cho nàng dùng làm ám khí.
Thủ pháp phóng châm của Vô Song Nữ hung mãnh khôn cùng, nhưng thủ pháp Qua Mặc chộp lấy ám khí càng thần kỳ làm sao, thật khiến người ta khó tin.
Vô Song Nữ hơi biến sắc, chỉ một chiêu của Qua Mặc đã đủ cho nàng tự than không bì nổi, đương nhiên nàng đâu có sợ, đọ võ tranh thắng, đến cuối cùng hươu chết về tay ai còn phải xem tận tường.
Qua Mặc quăng châm lên trên đầu, hỏi: “Cô Nguyệt Minh đâu?”.
Vô Song Nữ trầm giọng: “Ta không biết ngươi đang nói gì”.
Châm lại lọt giữa hai ngón tay của Qua Mặc, lập tức lại biến thành lợi khí sát nhân nguy hiểm. Qua Mặc lòng kinh ngạc, câu nói của hắn đâu phải là hỏi đại, nếu thi thể trên lưng ngựa là Cô Nguyệt Minh, sức chú ý của Vô Song Nữ sẽ dời ra sau, đó là phản ứng tự nhiên, bằng vào thuật nhìn người tinh diệu nhập thần của Qua Mặc, có thể từ sự biến hóa thần tình vi diệu của đối phương mà truy ra