“Triệu MÀN TRÙUU!!!”
Một giọng nữ vang rền át tiếng sóng cả biển đông.
Thanh sắc lạnh lẽo kết hợp với ánh mắt sắc nét tựa như muốn hóa thành lưỡi gươm.
Hơi khí cao ngân liên hồi tựa như muốn đem nội lực uẫn tích lâu ngày bộc phát hết thảy.
“Triệu Màn Trù chính là ta ta ta,
Không có ở đâu xa xa xa,
La la la lớn vậy làm gì?!”
Một âm giọng khinh khỉnh nửa trêu nửa trả lời ngân nga một loại lai thơ lai ca nhạc, tưởng chim hạc lại giống thiên nga, ngỡ ba ba hóa ra là cha hà mã.
Thanh niên cao lớn vạm vỡ nằm vắt vẽo trên mạn thuyền, nghẹo đầu sang nhìn cô nàng đang hằm hằm bước đến.
Ngực nàng ưỡn cao, lưng dương thẳng tắp, eo buộc uy nghi, bước chân oai dũng.
Mắt nàng sâu sắc, mũi thẳng thanh thoát, tóc buộc anh tư, miệng …
‘Haizz! Miệng nhỏ chúm chím môi hồng.
Không ổn, quá dài.
Miệng môi đỏ hồng.
Không ổn, thô t.ục.
Miệng nở hoa sen.
Nghe thấy ghê ghê.
Miệng …’
Triệu Màn Trù bổng nhiên không rét mà run.
Dòng suy nghĩ thơ văn ca nhạc của chàng thi sĩ miền sơn cước cũng bị khựng lại.
Đó là bởi bóng hồng, hay nói cho đúng là bóng tối trước mặt đã che đi hết phân nửa ánh sưởi của ông trời.
Đặc biệt là hai mắt sắc liệm lạnh lẽo như thanh gươm bén được mài trong sương giá và gió buốt, chuyên dùng để cắt đôi không thấy máu.
‘Rất là tiện lợi, đỡ phải lau gươm’ Triệu Màn Trù rất nhanh xua đi cơn rét run bằng một ý nghĩa không đâu vào đâu như thế.
Cô gái giơ lên một tấm gỗ được mài dũa vuông vức xinh đẹp, trạm trỗ tinh xảo, hoa văn tao nhã đậm nét thi nghệ, thể hiện ra sự khéo léo công phu và tâm hồn bay bổng cao vút của người nghệ nhân dày dặn kinh nghiệm, đè xuống mặt Triệu Màn Trù.
“Cái gì đây???”
Triệu Màn Trù giơ lên tấm gỗ ấy, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, giữ nhẹ sợ rơi, chạm mạnh sợ trầy, bởi vì đó là kết tinh trí tuệ và công sức mấy ngày nay của chàng.
Khuôn mặt góc cạnh chữ điền của chàng thi sĩ chất phác toát lên một nét cười ôn nhu ngây ngô, tựa như một bác nông dân hiền lành đang nhìn con gái rượu của mình, nói mấy chữ chẵng ra đầu ra đuôi:
“Nghe ai chỉ vậy”
Cô gái đơ cả mặt chớp chớp mắt vuốt vuốt mũi như muốn sắp xếp lại mạch chuyện nãy giờ, một hồi sau vẫn chẵng hiểu tên ‘ngố lãng’ trước mặt đang nói cái gì.
Nàng nhiếu mày trầm giọng chất vấn:
“Nói nhãm cái gì đó?
Bổn cô nương hỏi cái tấm gỗ này là cái gì đây???”
“Thơ! Tên của nàng thơ ấy là ‘Nghe Ai Chỉ Vậy’”
Triệu Thị Thục giật mình dường như cũng đã hiểu, nàng lẩm nhẫm lại bài thơ được chạm khắc trên tấm gỗ, rồi bực mình hỏi:
“Ai bày ngươi?
Ai bày ngươi làm cái trò này?”
Triệu Màn Trù mỉm cười chính trực trả lời:
“Không ai bày cả.
Đó là từ tận đáy lòng của một người yêu thơ”
Triệu Thị Thục trừng to mắt.
Triệu Màn Trù gượng cười chống đỡ:
“Ta đã hứa là sẽ không bán đứng anh em mình”
Triệu Thị Thục thu lại sát khí, quăng lại một nụ cười khinh bỉ rồi rời đi, bước chân đi xa nhưng giọng còn vọng lại oanh oanh yến yến vào tai chàng thi sĩ ngây thơ:
“Ngố Lãng!
Lần sau cấm không đem những thứ vớ vẫn ném vào phòng bổn cô nương nữa.
Nhớ đấy!!!”
- ----------
Mặt trời nhô hẵn ra khỏi mặt nước, sóng biển vỗ mạn thuyền rì rào.
Nằm vắt chân trên mạn thuyền, thân thể Triệu Mạn Trù chẵng hề va vượt mà dường như dính chặt vào thành tàu, hóa thành một phần của nó, lên lên xuống xuống nhịp nhàng theo từng con sóng chẵng hề nao núng gì.
Kỳ thật không phải vậy, thân thuyền đang liên tục lay động, cơ thể của chàng cũng luôn luôn có những biến hóa vi dịu để giữ thăng bằng cho mình.
“Màn Trù ca! Vẫn còn luyện công à?”
“Lão Bảy đó hả?
Thục nhi có tìm ngươi không?
Có bị sao không?”
“Màn Trù ca!
Ta nói làm sao mới thức dậy thì chị ấy liền chặn cửa.
Hóa ra là ngươi bán đứng ta”
“Ta không có nói.
Ta thề!
Là Thục nhi quá thông minh”
“Vậy sao”
Khóe môi Nguyễn Bảy kéo lên một nét cười gian xảo rồi vụt tắt.
Sau đó hắn vào thế đi quyền, gia nhập vào hội luyện công buổi sang.
Một lát sau,
“Thần Toán Tử.
Sao bữa nay dậy trễ vậy.
Sáng muốn bảnh mắt ra rồi.
Lại lười phải hông.
Còn trẻ mà lười như vậy sao mà luyện thành một thân dũng mạnh được”
- Tiếng nói của Nguyễn Bảy đem Triệu Màn Trù kéo khỏi tư thế luyện công.
Hắn ngước đầu lên thì thấy một thanh niên chầm chậm lất thất bước tới, xem chừng sắc mặt không tốt, nhưng vẫn ráng nở một nụ cười thân thiện chào:
“Buổi sáng tốt lành, hai vị ca ca!”
Rồi thanh niên cũng bắt đầu luyện công, lưng quay về phía hai người kia, như để che giấu điều gì.
Triệu Màn Tru thầm nghi hoặc trong lòng:
‘Hai mắt thâm đen như vậy! Thức khuya quá sao?
Haizz! Xem ra phải chú ý Toán Tử hơn.
Phá hoại sức khỏe như vậy’
— QUẢNG CÁO —
Hắn không biết là Nguyễn Bảy vừa mới nhếch lên môi cười trộm.
Sự việc phải nói đến thật lâu mấy năm trước.
Khi ấy Triệu Thị Thục và Triệu Màn Trù lần đầu gặp nhau trong lễ giổ tổ.
Khác với ngày lễ vừa rồi, bởi vì Chu Phù tìm mọi cách bắt bẻ hạn chế nên những năm trước đây đi giỗ tổ không được mấy người.
Cho nên trong hầu hết các trò lễ hội thi đấu cũng chỉ có loe ngoe vài đội.
Hai vĩ nữ kiệt nam hùng có thể nói là đối thủ truyền kiếp.
Có câu nói là ‘không đánh không quen biết’.
Lại có câu nói là ‘duyên trời định, ném cũng chẵng đi’.
Hai người dưỡng thành thói khắc khẩu với nhau, vừa gặp là cải, cải đến nổi dính nhau như sam, đến bây giờ lại lên chung một thuyền ra khơi thám hiểm vạn dặm xa, không biết sẽ lênh đênh trên biển cùng nhau bao nhiêu tháng ngày.
‘Trong cuộc tối, ngoài cuộc tỏ’, Nguyễn Bảy vừa nhìn là biết cặp này có vấn đề gì, thế là hắn đá mông ông Tơ đi chổ khác, cướp cuộn chỉ hồng trong tay bà Nguyệt, tự mình làm thay chuyện mối mai.
Tơ-Nguyệt làm việc có đôi, Nguyễn Bảy cũng không làm một mình.
Hắn trước tiên bắt nhịp với hội ‘đi bụi’, bởi vì Triệu Thị Thục cũng là nữ anh nhà võ, vừa gặp Diana và Danokoye thì đã thân, tựa như chị em tỉ muội đồng môn vậy.
Sau đó hắn lại cưỡng bách Võ Toán tham dự vào, cốt là để làm bia đỡ đạn.
Khá giống với Triệu Màn Trù, chàng trai Võ Toán cũng là một con người có trí tuệ sáng suốt nhưng bị tính cách chất phác thật thà che phủ, chèn ép.
Võ Toán là học trò trong Bạch Vân Am, mồ côi từ nhỏ, được Nguyễn Bỉnh Khiêm nuôi lớn, quen biết Nguyễn Bảy từ hồi còn lột trần tắm mưa, ôm nhau ho sặc sụa, lấy phân trâu ném vào mặt nhau rồi cười hà hà.
Đáng tiếc, Nguyễn Bảy tới tuổi thiếu niên thì liền đi Trường Sa, sau đó bị một đứa bé ‘hắc ám như con của quỷ’ nào đó luyện thành thói ma lanh, gian xảo.
Còn Võ Toán thì được Nguyễn Bỉnh Khiêm hết lòng dạy bảo như bao học trò khác, trưởng thành một thanh niên giỏi giang khôi ngô, văn võ toàn tài, nhưng vẫn giữ lấy tính cách chân chất thật thà trời sinh, à không, phải gọi là đất sinh, vì hắn hiền như cục đất.
Chính vì vậy mà Võ Toán, hay Thần Toán Tử, đã trở thành ‘cái khiên’ cho Nguyễn Bảy mỗi khi có vấn đề xảy ra.
Ví dụ như vừa rồi,
Đám người bàn nhau khuyên Triệu Màn Trù làm thơ tặng cho Triệu Thị Thục.
Triệu Màn Trù vốn tính thật thà, lại bị Nguyễn Bảy ‘rù quến’ hồi lâu, sớm đã biết ‘chơn ái trong tim’, hiểu được mình muốn gì, quyết chí tự cường, bỏ đi thói xấu khắc mỏ, cục mịch, chủ động theo đuổi ‘nàng thơ’.
Thế nhưng tên này vẫn giữ lại một tính xấu.
Đó là quá tự tin vào tài văn nghệ của mình.
Cho nên khi tác phẩm hoàn thành giao cho hội ‘mai mối’ thẩm định thì:
“Nghe nói Sông Nhiều con sư tử
Ai bảo Chín Núi mẹ sư vương
Chỉ mong Đổng Biên yêu sư chúa
Vậy thì trời Nam triệu năm an”
- Võ Toán đọc xong bốn câu thơ của Triệu Màn Trù mà toát cả mồ hôi hột, hắn chỉ chất phác chứ không ngốc, ngược lại, nếu đem so đấu thì tài văn thơ của hắn còn vượt qua phần lớn cử nhân ‘hiếu liêm’ ở Lạc Dương.
Hội ‘đi bụi’ cũng sinh hoạt với người Việt một thời gian không ngắn, đã bắt đầu nói được bập bẹ ngôn ngữ Việt rồi, họ vốn là những khách du lịch đây đó, tiếp xúc nhiều nên học ngôn ngữ văn hóa mới khá nhanh, đặc biệt là Marco Polo.
Sau khi nghe Marco Polo diễn giải rõ hơn ý nghĩa của bài thơ thì bộ mặt của 6 người còn lại cũng chuyển cấp độ xạm đen bình thường sang cấp độ đưa đám cả nhà.
Triệu Màn Trù dường như không nhận ra biểu hiện khác lạ của mọi người, vẫn ưỡn ngực dõng dạc khoe:
“Bài thơ này ta làm từ cách đây 5 năm, đó là lần đầu tiên ta gặp nàng.
Lần đó ta thức cả đêm mới hoàn thiện được phần dàn ý.
Sau đó lại mất 5 năm chỉnh sửa.
Đúng vậy!
Các vị nghe không sai!
Ta chỉ mới hoàn thành nó vào hôm qua thôi, sửa lại một chút ở câu cuối”
Nói rồi vỗ vai Nguyễn Bảy cười chân thành:
“Cảm ơn lão Bảy.
Nhờ đệ mà ta biết được nó chính là kết tinh của tình cảm chân thành.
Lúc đầu ta còn tưởng là ta làm bài thơ này để châm chọc nàng đó chứ”
‘Đúng vậy! Ngươi làm bài thơ này chính là để cạy khóe nàng!
Không! Ngươi làm bài thơ này là để tự sát!
Chúc mừng thi sĩ Ngố Lãng!
Ngươi vừa thành công phát minh ra một phương pháp tự sát rất thơ thẫn thẫn thơ’
Đương nhiên là Nguyễn Bảy không có đem những suy nghĩ ấy nói ra miệng, bởi vì hắn đánh không lại Triệu Màn Trù, và hắn cũng biết là tên này cực gàn và cố chấp trong vấn đề thơ ca văn nghệ.
Thế là Nguyễn Bảy lái cuộc họp sang giai đoạn bàn bạc cách đưa tặng vật này cho Nguyễn Thị Thục.
Marco Polo đề xuất:
[Trao tặng tận tay cho Nguyễn Thị Thục dưới ánh trăng lãng mạn chỉ có hai người]
Phủ quyết!
Nếu là một bài thơ hay thì không nói làm gì, chứ cái bài của Triệu Màn Trù thì đến trăng cũng phải xạm mặt chứ đừng nói là Nguyễn Thị Thục.
Diana ngõ ý:
[Chân thành đưa tặng trong sự chứng kiến của mọi người]
Phủ quyết!
Chân thành là tốt, nhưng cái bài thơ này mà trao tặng trước mặt đông người là thành châm biếm bêu rếu con gái người ta giữa chốn công cộng chứ chân thành gì.
Và hiển nhiên là ý tưởng ngáo ngơ của Colleen Duffy cũng bị phủ quyết:
[Tạo bất ngờ bằng cách giấu trong đồ ăn]
‘Nghĩ sao mà đem giấu nguyên tấm gỗ to bằng cái mặt người trong đồ ăn của chị Thục?’
Nguyễn Bảy lắc đầu nhìn cái tô cơm to bằng đầu con trâu của Colleen Duffy, có chút choáng váng.
Hắn xoa trán một hồi trong sự thúc giục của Triệu Màn Trù, tên này vẫn chưa biết mình sắp xông vào chốn nguy hiểm nghìn trùng, quả không hổ là kẻ từng phá đảo đầm thiêng Nhất Dạ hoang vu khi còn là thiếu niên choai choai.
Thở hắt một hơi, tống hết những hối hận vì mạo muội te te giành ghế của ông Tơ:
“Được rồi!
Đệ cảm thấy chị Thục cũng bắt đầu có những biểu hiện để ý đến Màn Trù ca”
Nói rồi quay sang Diana và Danokoye và được sự gật đầu công nhận của hai người.
Thế là Nguyễn Bảy nói tiếp:
“Nam mang tình, nữ có ý.
Vậy thì khỏi phải bày vẽ gì cho rách việc.
Trực tiếp luồn khe cửa đặt trong phòng của chỉ là được”
— QUẢNG CÁO —
Triệu Màn Trù lúc này lại tỏ ra ngại ngùng kiểu kỳ là:
“Nếu mà đưa tặng trước mặt thì ta làm được.
Chứ mà lén lén lút lút như vậy ta thấy kỳ kỳ sao á”
Bởi vì sự giở chứng bất tử của Triệu Màn Trù và sự đẩy đưa đưa đẩy của những kẻ lõi đời,
Cuối cùng thì nửa đêm hôm đó,
Chàng trai Võ Toán anh dũng mang theo bài thơ thần sầu lên đường đi ‘đặt bom hẹn giờ’.
- ----------------
Để giữ cho tinh thần mọi người khỏe mạnh, nhà du hành chuyên nghiệp Marco Polo đã đề xuất với Nguyễn Bảy chế tạo ra hết trò phá phách này tới trò cảm giác mạnh khác như thế.
Chỉ mong mỗi ngày trên biển cả vô ngần đều là một ngày ‘ngọt ngào dịu êm’ và nhí nhảnh như vậy.
Đứng tại mũi thuyền, Nguyễn Thị Thục đã sớm thu lại nụ cười thầm ngốc nghếch.
Nàng dang ra hai tay cố bấu víu lấy một cơn gió nhẹ thổi qua, nhưng chỉ cảm nhận được sự an bình tĩnh lặng đến bất thường của biển cả.
Hướng tầm mắt ra xa, một dãi lụa bảy sắc mờ nhạt ẩn hiện trong ánh mù, như chiếc cầu nối liền biển xanh thăm thẳm với những vầng mây nhuộm màu đỏ hồng tuyệt mỹ cuối chân trời.
Khung cảnh ấy như hiện lên từ trong chuyện cổ tích.
Có lẽ đã từng có những nhà thám hiểm lãng mạn đem nơi ấy coi là cửa thiên đường.
Tất cả họ hẵn là đã làm mồi cho cá!
“Bão sắp tới!
Thông báo các thuyền khác!
Bão sắp tới!”
- Nguyễn Thị Thục hét to.
Nàng có lẽ không đi nhiều như hội ‘đi bụi’, kinh nghiệm đi biển của nàng cũng chưa chắc nhiều như Marco Polo, người đã vòng mấy vòng Địa Trung Hải và biển Ba Tư.
Nhưng để truy tìm dấu vết ngày xưa của tổ tiên Mai An Tiêm thì Triệu Thị Thục đã có không ít lần căng buồm ra biển tử khi còn là một thiếu nữ.
Nàng quá hiểu vùng biển Đông của quê hương mình!
Và nàng cũng đủ quả đoán khi quyết định thuyết phục mọi người căng buồm quạt chèo, dùng hết tất cả mọi cách để tăng tốc đoàn tàu.
Không phải để né qua cơn bão.
Triệu Thị Thục không kiêu ngạo đến vậy.
Mà là …
Sau 3 canh giờ, lúc này mới sắp tới giữa buổi chiều (15h kém).
Phương đông bắt đầu hiện lên sắc màu u ám, ngọn sóng bắt đầu thở mạnh phì phò, con mãnh thú thời hồng hoang đang tiến tới gần.
Đoàn thuyền vẫn đang lao vun vút, các thuyền viên vẫn đang đánh máu gà, một nhóm lại