“…
Hay đâu thần tiên đi lấy vợ!
Sơn Tinh, Thuỷ Tinh lòng tơ vương,
Không quản rừng cao, sông cách trở,
Cùng đến Phong Châu xin Mỵ Nương.
Sơn Tinh có một mắt ở trán,
Thuỷ Tinh râu ria quăn xanh rì.
Một thần phi bạch hổ trên cạn,
Một thần cưỡi lưng rồng uy nghi.
…”
- Trích bài thơ [Sơn Tinh Thủy Tinh] trong tập Ngày Xưa (1935) của nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp,
Nhược trong ‘suy nhược’, Pháp trong ‘giặc Pháp’.
“Tếuuuuu!
Phải nghe lời ông đấy biết chưa.
Ráng mà học thành tài nghệ của ông, sau này anh mang em đi khắp mọi miền”
“Vânggggg!
Anh Hùng hứa rồi đấy nhé.
Sau này em sẽ được diễn xuất khắp đất trời.
Đem lại tiếng cười khí phách cho tất cả đồng bào”
Khi Hoàng Hùng quay đầu lại thì rừng Gươm đã lui sâu vào vòng tay bao bọc của núi non trung điệp,
Chỉ còn văng vẳng theo từng cơn gió thu những lời khắc ghi trong tâm khảm của Tếu, cháu nuôi của ông già kể chuyện Cao Tấn.
Khó có thể tưởng tượng được rằng sau mấy tháng sống chung thì người trở nên thân nhất với hắn trên mảnh đất ấy lại là Tếu.
Khi mới lọt lòng thì Tếu đã mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận lũ quét.
Cao Tấn đem cậu bé về nuôi và xem như con cháu ruột bởi ông không cưới vợ chẵng sinh con, hậu quả của việc làm mất ‘Lạc Việt Thần Điểu’.
Với ông thì cậu bé là món quà trời ban, để xoa dịu những giằng xé trong tim vì không giữ được thánh vật của tổ tiên.
Từ bé thì Tếu đã thông tuệ, có lẽ là ông trời đền bù cho tai ương mà ông gây ra cho cậu.
Nhưng cũng bởi vậy mà Tếu hiểu được rằng cha mẹ cậu mất rồi, bất kể Cao Tấn có nói dóc, diễn trò tốt đến cở nào.
Bí nước, Cao Tấn bảo với Tếu rằng linh hồn của cha mẹ cậu ở trong con suối ấy, ngày ngày đi múc nước, bắt cá, tắm giặt thì cha mẹ đều nhìn thấy Tếu.
Thế là không biết vì Tếu tin Cao Tấn thật hay là vì Tếu chứng minh mình vẫn ổn để làm ông vui,
Ngày ngày Tếu vẫn ra bờ suối, hí há hí hoáy cái gì ấy, rồi cậu lại đi theo mấy bác thợ mộc thợ rèn xin xỏ này nọ, học này học kia.
Rồi một ngày Tếu nói với Cao Tấn là cậu gặp được cha mẹ rồi, và mời ông ra suối sau bữa cơm trưa.
Khi Cao Tấn đến nơi lại chẵng thấy Tếu đâu, nhưng ông chưa kịp la ó hốt hoảng thì…
Từ trong lòng suối mát nổi lên hai con rối gỗ một nam một nữ, nho nhỏ thôi nhưng rất xinh đẹp, rất có hồn, tựa như cha mẹ Tếu hiện về thật vậy, họ cảm ơn ông đã thay họ chăm sóc Tếu.
Vấn đề duy nhất là họ nói giọng của Tếu, và quả đầu ba chõm của Tếu dù dựa sát vào thành suối thì cũng đâu thoát được mắt Cao Tấn, người đã từng là cao thủ số một của rừng Gươm, ông bị đánh gãy khớp chứ đâu có bị mù.
Nhưng Cao Tấn vẫn vờ như không phát hiện ra, ông nói chuyện với ‘bố mẹ Tếu’ chỉ một lát rồi rời đi vì sợ Tếu lạnh.
Hôm ấy Cao Tấn khóc nhiều lắm, khóc trong vui cười, khóc trong những lời khen tặng từ tận sâu trong tâm dành cho đứa cháu nuôi, một thiên tài sân khấu thực sự.
“Ai lại nghĩ đến việc đem màn nước hóa thành sân khấu kia chứ?!”
Cao Tấn nói như thế khi kể chuyện này với Hoàng Hùng.
Và Cao Tấn bắt đầu dốc hết cả tâm sức mình vào việc dạy bảo Tếu.
Cậu bé có ước mơ được đem tiếng cười sân khấu, đem khí phách cha ông lan tỏa đến mọi miền đất Việt, để tất cả đồng bào ta có thể được vui tươi hạnh phúc, được đúc luyện đức tâm.
Tếu hệt như cái tên của cậu.
Nhưng nếu không có cái tếu cái tình ấy thì văn hóa ta trong tương lai hẵn là sẽ mất đi một nét chấm phá dịu kỳ.
“Một ước mơ vĩ đại trong một hình hài bé nhỏ!”
Trần Sáu đã nhận xét như thế.
Không phải chỉ vì năng khiếu ngôn ngữ của cậu bé Tếu chẵng kém cạnh gì hắn khiến hắn nhớ lại ngày ấu thơ của mình.
Mà bởi vì Trần Sáu thật sự cảm thấy khâm phục ước mơ ấy,
Trẻ con thích vui thích cười thì không có gì lạ,
Nhưng nếu một đứa bé muốn đem hồn cốt của dân tộc vào trong vui cười
Và lan tỏa cho mọi người để phát triển văn hóa của giống loài mình,
Thì đứa bé ấy thật là đáng khâm phục.
Mọi người cùng đồng ý với hắn, nhất là Hoàng Hùng.
Cho nên dù không có mối thân tình được xây dựng từng giờ từng khắc suốt mấy tháng qua thì Hoàng Hùng cũng bằng lòng dùng hết khả năng giúp cậu bé.
Nếu không phải Tếu còn quá bé và còn cần đi theo Cao Tấn trau dồi nhiều hơn thì Hoàng Hùng đã ‘bắt cóc’ cậu bé theo luôn rồi, Vu Vương cũng cản không được.
- -----------
Chuyến hành trình sắp tới có lẽ sẽ khá vất vã, Hoàng Hùng, Trần Sáu, Đinh Ba và Ngô Hai sẽ phải trèo đèo vượt non băng rừng khá nhiều để leo lên Đô Bàng Lĩnh để gặp gỡ Sơn Việt Vu Vương.
Còn Lý Năm thì được Hoàng Hùng cử đi bảo vệ Nguyễn Bỉnh Khiêm, người sẽ tiếp tục dẫn đoàn học trò của mình đi về hướng Đông, đến diện kiến Mân Việt Vu Vương.
Phân công như vậy không phải vì để đuổi thời gian cho kịp lễ giổ tổ năm sau mà là có dự kiến từ trước.
Trước là về địa lý.
Đô Bàng Lĩnh ẩn trong thâm sơn cheo leo, từ rừng Gươm đến Đô Bàng Lĩnh xa hơn nhiều từ Hợp Phố vào rừng Gươm.
Đoàn người Nguyễn Bỉnh Khiêm đi quá bất tiện, chi bằng chỉ cử một nhóm nhỏ đi thôi.
Về phần Mân Việt thì lại trái ngược.
Bởi vì thường giao tế với người Hán, thậm chí Mân Việt Vu Vương chính là một trong những cánh tay đẩy lưng phía sau quân khởi nghĩa Hứa Chiêu nên đường đi nơi này vốn không phải quá khó khăn.
Thế nhưng Huyền Kính Ty cũng sẽ nhiều hơn.
Nguyễn Bỉnh Khiêm thì không nề gì vì từ xưa nay vẫn thể hiện mặt ngoài trung lập, chỉ yêu đèn sách, tựa như một vị Thái Ung thứ 2, nếu không phải là người Việt chính gốc thì có khi Lưu Hoành cũng muốn vời ông vào Lạc Dương làm thủ lĩnh đám hàn môn để cùng đánh thế gia.
Hoàng Hùng thì khác.
Hắn có thể qua mặt Huyền Kính Ty Giao Châu nhờ cách trở thông tin nhưng đến vùng quản trị của Mân Việt thì đã không còn là Giao Châu mà là Dương Châu, nơi có quan hệ khăng khít với Kinh Châu.
Nhất là khi Thái Ung cũng đang tá túc ở nhà học trò Cố Ung còn ‘học trò trưởng Hoàng Hùng’ đang giữ đạo hiếu ở Trường Sa thì mật độ liên lạc của Huyền Kính Ty hai châu sẽ càng nhiều.
Khó mà đảm bảo không có ai nhận ra Hoàng Hùng cho dù hóa trang có kỹ đến đâu.
Nếu như một người na ná giống với tiểu công tử nhà họ Hoàng xuất hiện ở đây trong thời gian ‘giữ đạo hiếu’ thì chuyện vui liền lớn.
Cho nên cẩn thận vẫn hơn.
Dù sao thì chỉ cần Mân Việt Vu Vương xuất hiện ở lễ giổ tổ năm sau là ổn, muốn ra mắt làm quen, giới thiệu gặp mặt gì chẵng được.
Trái ngược với sự lo lắng thường trực của Ngô Hai,
Hai thầy trò Nguyễn Bỉnh Khiêm-Hoàng Hùng rất tin tưởng vào kế hoạch do họ hợp tác chế định.
Trong lễ giổ tổ vừa rồi, khi Hoàng Hùng lao đầu vào cuộc vui, dùng ánh mắt tầm gần để quan sát các đoàn đại biểu thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lại đứng ở một vị thế ngoài cuộc, để có góc nhìn bao quát khách quan.
Cả hai đều có giác quan sắc bén và trí tuệ cao rộng, nếu có thiếu thì chỉ là không thể phân thân mà thôi.
Thế nhưng nay họ có hai người, tựa như phân thân rồi, nên khi họ kết hợp góc nhìn của mình để bổ khuyết cho nhau thì đã tổng hợp ra phương sách đối phó.
Cho dù là những cộng đồng thuộc dạng khó chơi như Sơn Việt và Mân Việt cũng có thể an tâm 9 phần đi làm.
Còn 1 phần là hên xui.
Điều này thì Hoàng Hùng không lo, hắn là duy nhất ‘thế giới khí vận chi tử’.
Về phần Nguyễn Bỉnh Khiêm thì từ khi còn ở rừng Gươm đã giấu trong ngực áo ‘Lạc Việt Thần Điểu’.
Đó cũng là kế hoạch từ trước chứ không phải nhất thời nổi máu điên.
Hoàng Hùng không có ngáo đến mức vừa nghe luận điểm mê tín của Tây Âu Vu Vương thì liền liều lĩnh chứng minh.
Kế hoạch kế hoạch là gì mà nói mãi.
Vậy thì trước hãy quay lại với lễ giổ tổ.
Các cộng đồng Bách Việt tách biệt với nhau lâu như vậy vẫn không thể đoàn kết lại cũng có lý do của nó.
Mặc dù cùng có một lòng kính nhớ hướng về tổ tiên, chẵng một ai quên ngày giỗ tổ,
Thế nhưng phương châm làm việc và tính cách của các vị Vu Vương thật là khác quá xa nhau.
Cùng tựa lưng vào nhau nơi núi rừng Ngũ Lĩnh mà trong khi đoàn bái tổ của rừng Gươm vừa đông vui vừa hòa đồng thì đoàn đại biểu của Đô Bàng Lĩnh lại hành quân vô cùng lặng lẽ nổi bật.
Đúng vậy, oái oăm như thế đấy!
Lặng lẽ một cách nổi bật!
Hoàng Hùng từng nghe nói có một nhánh học phái âm dương sư ở đất Phù Tang nắm giữ thuật hóa trang ẩn núp vào hoàn cảnh vô cùng xuất sắc, gọi là nhẫn giả.
Nhẫn giả có thể lặng lẽ dung nhập vào địa hình, bất kể là nơi đông người hay chốn hoang vắng, thành thị phủ đệ hay núi rừng sông suối, mặc dù họ vẫn ở đó nhưng người qua kẻ lại chẵng ai chú ý.
Cùng là một chiêu lặng lẽ ẩn nấp nhưng nếu đem hai đoàn đại biểu của Âu Việt và Sơn Việt coi là hai nhẫn giả thì,
Đoàn Rừng Gươm phải gọi là xuất sắc vì hoàn toàn hòa hợp với đám đông, ngoài cao tầng tổ chức ra thì hầu như chỉ có trọng tài các cuộc đấu là biết họ đại diện cho một trong 7 cộng đồng lớn của Bách Việt,
Còn đoàn Đô Bàng Lĩnh thì phải gọi là dỡ tệ nếu không nói là ‘có lẽ họ tưởng rằng tất cả mọi người đều có tật loạn thị’.
Đoàn Đô Bàng Lĩnh cũng đến sớm nhưng lại không tham gia vào bất kỳ một hoạt động văn hóa văn nghệ nào.
Họ như được trồng giữa trời vậy!
Hầu như chẵng tiếp xúc với ai, cũng không muốn ai tiếp xúc mình.
Bởi vậy mà đến Già Ninh và bé Dần cũng biết họ khó gần, biết họ đến từ Đô Bàng Lĩnh.
Trong khi Già Ninh chẵng hề biết đoàn sứ giả của rừng Gươm, cứ cho là đến từ một Lang đạo nào đó trong cộng đồng Môn Việt,
Mà đường từ làng của Già Ninh đến rừng Gươm có hơn 100 dặm,
Còn khoảng cách giữa làng và Đô Bàng Lĩnh thì có gần ngàn dặm tính theo đường chim bay.
Khi Lạc Long ngõ ý lấy thân phận Nam Việt Vu Vương mời Sơn Việt Vu Vương tham dự lễ giổ tổ năm sau thì cả đoàn Đô Bàng Lĩnh thẳng thừng từ chối, không luyến láy đá xoáy gì, không biết là cộc hay là không cho ai mặt mũi.
Và khi Lạc Long đề nghị Đô Bàng Lĩnh đón tiếp đoàn sứ giả của động Khuất Lão thì họ lại vô cùng dè chừng và yêu cầu càng ít người tới càng tốt, thậm chí trưởng đoàn còn nói rằng nếu nhiều hơn 10 người thì Đô Bàng Lĩnh chưa chắc sẽ đón tiếp.
Thu hoạch từ lễ giổ tổ không phải rất nhiều, nhưng nó lại nghiệm chứng những đánh giá sẵn có của Hoàng Hùng về người Sơn Việt ở Đô Bàng Lĩnh.
Họ cũng giống với những người Sơn Việt sống tản mạn ở Kinh Châu và Dương Châu thôi.
Điều khác biệt duy nhất là họ có thực lực để miễn cưỡng tự cung tự cấp nên không cần phải mạo hiểm xuống núi hay mở cửa đón khách.
Nếu hỏi Hoàng Hùng rằng trước khi về quê cha đất tổ thì hắn hiểu rõ nhất phần nào trong đồng bào mình?
Hoàng Hùng có thể tự tin trả lời là Sơn Việt, bởi vì hắn lớn lên trong những vòng tay, tiếng cười, tiếng nói Sơn Việt, tuổi thơ hắn tiếp xúc với không biết bao nhiêu dân Sơn Việt ở Kinh Châu và Dương Châu.
Họ tự tin vào sức mạnh đơn lẽ, tự tin đến mức chất phác, chất phác đến mức bảo thủ.
(P/s: đã demo chuyện này ở lần đầu gặp Cố Ung)
Có lẽ cũng bởi thế mà có rất nhiều dũng sĩ Sơn Việt đã được chiến thần Hạng Vũ trọng dụng, và đã dám liều mình trong vong vây dày đặc của quân Hán dù các đồng đội Ngô Sở đã bỏ vũ khí xin hàng.
Đó là điều may mắn của Hạng Vũ khi có những dũng sĩ quả cảm liều chết mở đường máu.
Nhưng lại là một khuyết điểm chết người của cộng đồng Sơn Việt.
Bởi vì không có đoàn kết thì thất bại là sớm muộn, võ dũng đơn lẽ sao có thể chống trời!
Hạng Vũ chính là một ví dụ đấy thôi.
Từ khi ách đô hộ của người Hán tròng lên người Bách Việt thì khởi nghĩa nhiều nhất chính là Sơn Việt.
Có lẽ do họ tự tin vào dũng lực của mình, cũng có lẽ do họ quá gần đất Hán, chịu áp bách khinh khi thường xuyên nhất.
Nhưng dù khởi nghĩa như cơm bữa thì bại vẫn hoàn bại, thậm chí bại liên tục, bại cực thảm, có những cuộc khởi nghĩa kéo dài không được vài tháng, và hầu như chẵng có cuộc khởi nghĩa Sơn Việt nào đạt được tới trình độ của Trưng Vương, Tây Vu Vương ở Giao Châu cả.
Đó là bởi họ không biết được sức mạnh của đoàn kết, thậm chí ngay ở bên trong cộng đồng mình cũng thế chứ đừng nói là với các cộng đồng khác.
Ví dụ như lần khởi nghĩa ở Cửu Giang vừa rồi, 5 vị thủ lĩnh Sơn Việt hợp binh đánh đuổi thái thú Cửu Giang, chiếm luôn cả quận trị.
Thế mà Lư Thực vừa tới chỉ dùng không tới 6 tháng là họ tan đàn sẽ nghé, người thì đơn độc về núi, kẻ thì liệt dũng xông trận một mình rồi hy sinh.
Thiếu sự trân trọng dành cho sức mạnh đoàn kết chính là điểm yếu lớn nhất nổi bật ở cộng đồng Sơn Việt.
Mà điểm tốt của họ thì ở vào thời đại này lại có thể tính là nửa nọ nửa kia, chẵng ra ngô khoai.
Đó là tôn trọng thiên nhiên.
Đúng vậy!
Người Sơn Việt cũng giống với Âu Việt, vô cùng hiếu kính đến mức bảo thủ đối với những tập tục củ của tổ tiên truyền lại.
Trong đó nổi bật là