Hoàng Hùng đánh ực một phát hết chén trà, lau mép nói:
“Ực.
Chà chà.
Vị trà thay đổi.
Xem ra thầy sống nơi này phong sinh thủy khởi, tâm tình cũng chuyển biến nha”
Thái Ung vẫn giữ nguyên tư thế buông cần, không thèm liếc xéo học trò, chỉ nhấn mạnh một vài từ cần thiết:
“Tiết khí có xuân HẠ thu Đông.
Nước sông cũng có GIANG có Hà.
Ai như ngươi,
Vốn tưởng rằng 3 năm không gặp phải lau mắt nhìn.
Kết cục…”
Nói nói bực mình duỗi một tay ra cuỗm lấy chén trà của mình nốc ùng ục cho bỏ ghét!!!
Lau mắt mà nhìn thì không đến nổi, Hoàng Hùng tự nhận là bề ngoài tạm ổn, trên mức trung bình, nhưng cũng không phải ‘ngọc diện lang quân’ như Chu Dị hay ‘thiên tiên giáng phàm’ như quân vương hiền thành bước ra từ trong sách vỡ.
Nhưng rữa tai mà nghe thì vẫn phải có…
Hoàng Hùng duỗi tay, xoay vai, thư thái đặt lựng trền sàn thuyền, đem bốn phương trời xanh mây trắng thu cả vào tầm mắt, nói tỉnh bơ:
“Thầy con nhớ mấy người bạn Tây Vực chúng ta gặp ở Hà Sóc sao?”
Thái Ung im lặng một lúc, tựa như đang cảm nhận mấy bé cá dưới mặt nước xanh đang rĩa mồi.
Lão này tai thính đến lạ, từ khi chuyển nhà đi Ngô Hội dưỡng lão thì bắt đầu nhấc lên thú vui tiêu khiển là câu tiếng cá.
Ngư dân câu cá vì miếng cơm, Lã Vọng buông cần vì danh tiếng, còn lão đầu Thái Ung thì thích thú lắng nghe mấy bé cá hý ha hý hửng rĩa mồi.
Thế nên ổng không dùng móc câu, cũng chẵng quăng con cờ.
Cần câu của Thái Ung chỉ buộc mồi, thiệt là nhiều mồi, thời gian đầu hao mồi đến nổi Cố Ung đều phải lau mồ hồi khi giúp thầy thay mồi.
Sau đó, Hoàng Hùng nghe Thái Ung nói mới biết rằng gần đây Hoàng Thừa Ngạn cũng có sở thích giống vậy, mặc dù không phải để nghe cá, mà là để thí nghiệm độ khôn của cá.
Mặc dù ‘nhờ phước thằng cháu trai’, sự vụ của Giang Nam 3 minh hội khá bận rộn, nhưng Hoàng Thừa Ngạn cũng không quên dành chút thời gian rãnh nghiên cứu cơ quan công nghệ.
Hoàng Thừa Ngạn sáng chế ra một chiếc hộp nửa sắt nửa gỗ nhiều ngăn buộc vào cần câu, mỗi ngăn đựng các loại mồi đủ kiểu, một bộ phần mồi lòi ra ngoài, nhưng còn phần lớn mồi thì phải mở ngăn mới ăn được.
Thái Ung cũng được Hoàng Thừa Ngạn tặng cho một cái khi lão này đi tổng bộ Phu Văn Lâu dự họp thường niên hồi đầu năm, tính ra thì cái hộp đang nằm dưới mặt nước Tây Hồ kia mới là sản phẩm đời đầu của phát minh mới lạ này.
Một cơn gió nhẹ thổi sóng nước lăn tăn, nghe như tiếng cá tiếng tôm vang vào tai Hoàng Hùng:
“Diana Lucina,
Danokoye,
Kerwindbad,
Colleen Duffy,
Kirkodyss,
Xitoma,
Marco Emilio Polo”
Hoàng Hùng cũng không câu giờ như ông thầy, tiếp lời ngay:
“Học trò gặp họ ở quê …”
Tiếp đó, tiểu tử Hoàng Hùng đem cuộc hành trình về quê cha đất tổ của mình vừa rồi kể ra cho ông thầy nghe, đương nhiên là ngoại trừ một vài phân đoạn huyền huyễn ly kỳ.
Ông lão chẵn 50 tuổi Thái Ung dường như đã biết mệnh trời, an lặng ngồi nghe, vừa nghe tiếng cá rĩa mồi quẫy nước, cũng nghe tiếng lòng của muôn triệu con dân Bách Việt, vừa nghe chiều hướng sóng gió nay mai, cũng nghe được ý chí xua mây khuấy trời của những vị anh hùng bất khuất.
Thỉnh thoảng khi đến đoạn những nét đặc sắc văn hóa của bản Môn bản Mường, của Tây Âu-Lạc Việt, hay như lễ hội đền Hùng đặc sắc thì từ góc độ của Hoàng Hùng, có thể liếc thấy ông lão Thái Ung nở nụ cười ngẩn ngơ hiền ái tựa như đứa trẻ thấy đồ chơi lại tựa như lão họm hẹm nhìn kỷ vật.
Cũng phải thôi, nếu như Hoàng Thừa Ngạn là dân kỹ thuật thì Thái Ung là dân văn hóa, hai ông này tuy yêu thích khác nhau nhưng lại có điểm chung là niềm yêu thích của họ đã đạt tới một cảnh giới mà phần đông nhân loại đều không đạt được cho đến tận lúc sắp nhắm mắt rời đi trần thế.
Hoàng Thừa Ngạn có thể ước gì Hoàng Hùng mau mau quay lại để hắn quẳng gánh lo đi mà chuồn tới rừng Gươm, thậm chí ổng sẵn sàng đem cuốn sách hướng dẫn chế tạo Nỏ Thần Liên Châu gửi đến rừng Gươm như là tiền trọ đặt cọc trước, đặt mình vào góc độ của rừng Gươm thì đó là điều hiển nhiên, nhưng đặt mình vào góc độ Hoàng Thừa Ngạn thì chuyện ấy không hiển nhiên chút nào.
Mà so với ông chú kiêm thầy dạy vỡ lòng, Hoàng Thừa Ngạn, thì Hoàng Hùng cảm thấy mình càng hiểu rõ về ông thầy thứ hai hơn, tất nhiên không phải vì tiểu tử ít sống với Hoàng Thừa Ngạn hơn, tính đi tính lại thì Hoàng Hùng chỉ theo Thái Ung có hơn 2 năm, trong khi từ lúc hắn thức tỉnh thân phận ‘Thế giới khí vận chi tử’ đến khi hắn rời đi Trường Sa là 4-5 năm trời.
Hoàng Hùng càng hiểu rõ Thái Ung hơn là vì lão này bộc trực hơn, nhất là khi chỉ có người thân cận bên cạnh thì vui buồn mừng giận chỉ nén trong lòng được không quá 3 chớp mắt,
Càng quan trọng hơn là vì Thái Ung thuần túy hơn Hoàng Thừa Ngạn trong việc truy đuổi sở thích của mình.
Mặc dù cùng đạt đến mức độ ‘đem yêu thích đưa vào máu thịt, biến đam mê thành thói quen hàng ngày’, nhưng Hoàng Thừa Ngạn có thể tạm đem mong muốn cá nhân dẹp qua một bên vì những sự nghiệp thiết yếu hơn, thực tế hơn, và có lẽ cũng vĩ đại hơn.
Còn ở Thái Ung, lão này vừa mới nhắc khéo với Hoàng Hùng rằng chuyến tàu đi Âu Lạc năm sau nhớ chừa cho hắn một ghế, thậm chí Hoàng Hùng còn nhìn thấy khóe miệng ổng nhiễu nước trà khi nghe tiểu tử nói về những trống đồng có niên đại từ 400 đến hàng ngàn năm sử dụng văn tự cổ đại.
Lễ mãn tang của Hoàng Dung vừa rồi không gặp được hai thầy trò Thái-Cố, rất hiển nhiên không phải vì ‘quá cố’, mà là vì trong cuốn sổ ghi chú của thế thân có nhắc đến việc Cố Ung bị Thái Ung trưng dụng đi sưu tầm văn bia thời cổ của Sở-Ngô-Việt-Mân, những quốc gia phương Nam vào thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Ông lão này đã viết Hậu Hán Ký đến giai đoạn hiện tại!
Trong thời gian chờ phong vân thay đổi, lịch sử sang trang, thì Thái Ung quyết định chuyển sang mảng Xuân Thu-Chiến Quốc bởi vì ổng cảm thấy kinh Xuân Thu của Khổng Tử mang tính giáo điều, dạy đời quá nhiều, còn Sử Ký của Tư Mã Thiên thì thiên hơi nặng về quan điểm cá nhân.
Thái Ung muốn viết một bản lịch sử thuần chính, chỉ có sự thực khách quan không có đánh giá đạo đức, chỉ có tư liệu xác đáng không có câu từ hoa mỹ.
Để đạt được mục đích này thì cần phải đào bới những di chỉ, bia sách của thời kỳ ấy, chứ không thể dựa vào nguồn tư liệu biên chế xuất hiện sau thời Doanh Chính diệt văn hóa được.
Thế nhưng Tần đốt sách vở chôn học sĩ, Hán tôn nho trục xuất bách gia, các nguồn tài liệu cổ nếu không bị hủy diệt thì cũng lưu lạc khắp nơi, có khi là chìm sông chìm bể, có lúc lại bị giấu kín như Ô Giang trấn bảo vệ bí mật truyền thừa của Ô Giang hội vậy.
Cố Ung vốn cũng bác học, lại theo thầy lâu nên bị nhiễm càng nặng, đúng ngày giỗ 3 năm của Hoàng Dung, hai thầy trò có ghé qua căn lều nhỏ ven sông nhưng khi ấy Hoàng Hùng con chưa quay về, thế lạ họ cũng chẵng ở lại lâu mà lập tức tiếp tục lên đường đi khảo cổ, dù sao Hoàng Hùng đều đã biệt tích 3 năm, chờ đến bao giờ.
Cách đây mấy hôm, Hoàng Hùng đến tận nhà họ Cố ở Ngô Hội thì mới hay tin hai thầy trò Thái-Cố đang ở Dư Hàng, vừa mới trục vớt một di tích tàu đắm dưới đáy Tây Hồ, nghe nói là có khả năng bắt nguồn từ một trận thủy chiến giữa Việt và Ngô.
Nếu hỏi ở trên đời này có ai có thể nhìn nhận một cuộc chiến bằng góc độ khách quan hơn cả thì đó phải là học giả,
Bởi vì bất kể là bên tham chiến, hay bên khán thính giả đều sẽ chia phe, và sẽ đem cảm xúc cá nhân cũng như quan điểm lập trường của phe mình vào cuộc chiến, mưu cầu chiến thắng.
Còn học giả thì mưu cầu chân lý khô khan:
Những sự kiện nào đã xảy ra trước chiến tranh, ngày tháng năm giờ giấc cụ thể,
Mục đích mà các bên tham chiến nêu ra, tuyên bố trên chiến trường và rao giảng nơi hậu phương,
Lực lượng của các bên tham chiến, thực tế xuất hiện trên chiến trường và con số trên tuyên truyền,
Diễn biến của trận chiến tại tiền phương và tại hậu phương, ngày tháng năm giờ giấc cụ thể,
Những sự kiện diễn ra sau chiến tranh, khô khô và khan khan.
Thực ra thì cũng không khô khan lắm nếu nhà học giả có thể xác định chắc chắn số lượng que tăm xỉa răng đã bị ném lại trên một chiến trường nào đó và đem chi tiết này ghi vào sách sử.
Việc trục vớt tàu đắm mặc dù đã xong, nhưng công cuộc khôi phục hiện vật để nghiên cứu thì còn đang được tiến hành, Thái Ung hiện tại có chút rãnh rỗi.
Để cung cấp cho Thái Ung một chút việc làm, Hoàng Hùng liền đem tư liệu lịch sử mang tính thời sự đưa ra, giúp thầy mình hoàn thiện thêm vài chương mới của Hậu Hán Ký.
Nghe đến đoạn Chu Phù đang bị nhốt ở Khuất Lão thì Thái Ung cười hà hà thu lại cần câu, cái hộp nhấc lên trống không, các ngăn đều đã mở:
“Cá hôm nay thông minh dữ!
Hôm qua tốn gấp đôi thời gian cơ”
Hoàng Hùng quăng một câu phản bác:
“Sao thầy dám chắc?
Ngộ nhỡ chúng là cá hôm qua thì sao?
Hẵn là đã quen với việc mở ngăn hộp rồi”
Thái Ung vừa thay mồi vừa cười ha ha hỏi ngược:
“Sao ngươi dám chắc?
Lão đầu tử ta mặc dù còn chưa nghe ra được sự khác biệt trong tiếng rĩa mồi,
Nhưng đây là lần đầu thả câu ở vị trí này.
Cứ cho là cá có thể nhớ lâu đi,
Nhưng Tây Hồ lớn như vậy, cũng phải có địa bàn hẵn hoi chứ,
Đã có trí nhớ thì không nên xâm phạm lãnh thủy của cá khác”
Hoàng Hùng vuốt vuốt cằm suy nghĩ một hồi, gật đầu nói:
“Ở Tây Nam của Long Biên cũng có một hồ nước,
Người dân Long Biên cũng thường gọi là Tây Hồ,
Mặc dù chưa đo đạc qua nhưng bằng mắt thường thì không kém cạnh gì nơi đây.
Nó gắn liền với rất nhiều truyền thuyết và điển tích cổ,
Có lẽ cũng có di tích cổ dưới đáy hồ”
Hai tai Thái Ung nghe thế giật giật, ổng thay mồi xong lại quăng hộp xuống tiếp tục buông cần như để nghiệm chứng về trí nhớ của loài cá:
“Nếu vậy thì thân già này đúng là không thể không đến Âu Lạc buông cần một phen.
Haizz!
Cũng may mà có thuyền của Đông Hải thương minh, nếu không thì phải trèo Ngũ Lĩnh hoặc đợi Cối Kê đánh xong mới được.
Thân già này là trèo Ngũ Lĩnh không nổi rồi.
Về phần Cối Kê, hẵn là ‘dưỡng khấu tự trọng’ a?”
(P/s: Dưỡng khấu tự trọng = cố tình giúp cho giặc cướp lộng hành để lấy cớ luyện binh, nắm quyền.
Thiệt sự là tạm thời không tìm ra diễn đạt gọn đẹp thuần Việt dễ hiểu để đưa vào câu văn)
Hoàng Hùng gật đầu xác nhận:
“Ô Giang hội vừa có thể làm khiên đỡ tên hiện giờ,
Lại vừa có thể làm cớ sau này để học trò dẫn binh Chinh Nam”
Thái Ung lắc đầu cười:
“Ngươi nha ngươi!
An Bình Trấn Chinh cũng không phải dễ ăn như vậy.
Lưu thị là chúa keo kiệt, ông bạn già Lư Thực của ta và Hoàng Phủ Nghĩa Chân cũng chỉ làm đến Trung Lang tướng.
Trừ phi thiên hạ đại loạn nếu không thì Lưu Hoành khó mà rặn ra tứ phương tướng”
(P/s: An Bình Trấn Chinh còn gọi là tứ phương tướng, đại diện cho ‘an ổn bình định trấn giữ chinh phạt 1 phương’.
Chức vị này đã cực kỳ cao, hơn nữa lại ngoại phóng, không ở trong Lạc Dương, nên quyền tự chủ lớn hơn nhiều Tiền Hậu Tả Hữu và Đại Tướng Quân, và hoàn toàn ăn đứt Thái Úy)
Hoàng Hùng nghe thế lại cười, còn Thái Ung cũng không biết nên cười hay nên khóc.
Thiên hạ này đại loạn vốn là điều chắc chắn, xu hướng tàn mạt đã xuất hiện từ trước cả thời Lưu Chí, đến hiện giờ thì càng quá quắt hơn, đương kim thiên tử Lưu Hoành bên ngoài thì công khai treo giá mua bán quan tước, thu thập tài lực, nâng đỡ vây cánh, quyết cùng thế gia chiến đến giọt máu cuối cùng.
Mà ở địa phương thì Đại Hiền Lương Sư Trương Giác danh vọng ngày càng lớn, người theo Thái Bình đã sớm hơn triệu, lại bởi vì triều đình chỉ lo đấu đá không màng nguy khốn của dân, thiên tai không giải quyết kịp thời khiến hai chữ ‘thiên mệnh’ lung lay, nên tốc độ tăng trưởng của tà giáo, ma đạo cực nhanh.
Người có chí trong thiên hạ đều muốn thừa nước đục kiếm chén canh.
Nói đâu xa, ngay như Tào Tháo, chớ nhìn hắn là hoạn quan hậu đại mà cho rằng thiên về bảo hoàng,
Hoàng Hùng nhớ được trong cái hôm Chu Dị được song hỷ lâm môn, cả bọn rũ nhau đi ăn mừng ở Hoàng Lạc lâu,
Tào Tháo từng nói rằng chí nguyện cả đời của hắn là trên bia mộ khắc chữ
Đại Hán Chinh Tây Tào Hầu Chi Mộ,
Chỉ từ câu này liền thể hiện rằng Tào Tháo sớm có ý nguyện