Có đôi khi lão Cá Chèo không hiểu tại sao cuộc đời mình lại nghiệt ngã đến vậy.
Lão cố gắng lê lết qua năm sáu ngôi nhà còn thắp đèn trong làng.
Thế nhưng nhà nào cũng đều đối xử với lão giống hệt đôi vợ chồng già ở ngôi nhà đầu tiên.
Buồn bã, tuyệt vọng lão nằm run rẩy trong cái lạnh của đêm mùa thu.
Dưới gốc cây, lắng nghe tiếng mưa rơi rả rich, trong đầu lão Cá Chèo tự nhiên vang lên một tiếng ca buồn.
Đó là một giọng ca rất trong, dài , và thăm thẳm như tiếng sóng vỗ trên sông Cả rộng lớn.
Cũng vào một ngày mưa như thế này, lão đã đưa tiễn người vợ của mình.
Nàng không nhìn mặt lão, chỉ quay lưng lại, mặt hướng ra sông và cất tiếng hát.
Tiếng hát của nàng cứ vang vọng vang vọng cho đến khi con thuyền hoa đỏ mất hút sau chân trời.
Lão Cá Chèo bỗng bật khóc.
Đây không phải lần đầu tiên lão nhận lấy sự lạnh nhạt của người đời, nhưng đây là lần đầu lão cảm thấy cô đơn nhất.
Mấy chục năm rồi, cô đơn dường như đã là sự quen thuộc cũng như sự ám ảnh với lão.
Thế nhưng việc mưu sinh khiến lão dường như quen dần với cô đơn, và chỉ lạnh lẽo những lúc đêm về.
Lão cũng cảm thấy lạc lõng, chơ vơ đấy để rồi mỗi khi ánh mặt trời bắt đầu ló lên ở phía Đông, lão lại hòa mình vào dòng người giữa chợ, lại kiếm sống lại mưu sinh, lại quên đi những cảm xúc đã nhét sâu dưới đáy lòng.
Mười năm sống vất vưởng trong chợ đã cho lão một chiếc mặt nạ hoàn hảo, để lão có thể gợi lên sự đáng thương trước mặt mọi người.
Kẻ ác không muốn đánh lão, kẻ hiền lành dành cho lão cơm thừa canh cặn, người tốt bụng mua cho lão tấm bánh, gói xôi.
Lão thành công với việc che giấu quá khứ, che lấp bản thân để tiếp tục tồn tại.
Cho đến đêm nay, tất cả bị đánh vỡ.
Lão nhận ra rằng trong đôi mắt sợ hãi của những người trong làng giống hệt đôi mắt của những người hàng xóm lúc lão bán vợ.
Họ không dám tin những gì nhìn thấy trong mắt mình.
Đêm đã khuya lắm.
Trời càng lúc càng rét lạnh.
Dường như mùa đông sắp trở mình tỉnh giấc.
Lão Cá Chèo rét run lên.
Lão không thể nằm dưới gốc cây trong mùa này được.
Lão phải kiếm một chỗ ấm áp hơn.
Thế là lão Cá Chèo mon men dọc theo con đường đi đến cuối làng.
Lão hi vọng nơi đó có thể có miếu thờ hay đơn giản hơn là một túp kều bỏ hoang nào đó.
Cuối ngôi làng là mấy cái ao rộng liên tiếp nhau.
Lão Cá Chèo đi giữa những bờ ao rộng lớn cuối cùng cũng tìm được một túp lều mà người ta dành để trông cá.
Lão chui vào trong lều, tìm thấy đá lửa mà người ta dùng để đốt lửa.
Thế là lão đi kiếm củi để đốt.
Quanh bờ ao không có cây to khiến lão chỉ có thể nhặt nhạnh được những cành khô bé, và một ít lá tre khô.
Dưới bóng trăng mờ mờ ảo ảo, lão Cá chèo bống phát hiện ra một khúc gỗ nằm ngày sát bờ ao.
Lão mon men đến gần.
Đất bờ ao gặp mưa, trơn nhẵn.
Lão ngã dúi dụi rồi trượt chân xuống ao nước.
Ao nước không sâu, chỉ đến tầm ngang bụng lão, thế nhưng trong lúc ngã, nước bắn lên làm ướt hết tóc và mặt.
Lão Cá Chèo vuốt nước trên khuôn mặt, thầm nghĩ đêm nay thật là xúi quẩy.
Lúc này dường như bóng mây đen che khuất mặt trăng đã hơi hơi tán đi, để lộ ra ánh sáng mỏng manh trong mưa.
Ánh sáng dịu dàng đó soi xuống mặt nước, phản chiếu cái bóng của lão Cá Chèo.
Lão bỗng hét lên sợ hãi, vội vàng cuống cuồng bò lên bờ.
Thế nhưng trong cơn vội vã, lão không thể nào trèo lên được.
Lão đành xoay lưng lại và đối mặt với khuôn mặt khủng khiếp đó.
Đó là một khuôn mặt trắng kỳ dị với làn da đồi mồi nhăn nheo.
Đôi mắt trũng sâu trong hai hốc mắt, chỉ có thể nhìn hai con ngươi trắng ti hí.
Đặc biệt là cái mũi không có hai lỗ mũi.
Cái miệng thì dường như bị khâu