Vương Đô là một vùng đất bằng phẳng, có thể gọi là tương đối màu mỡ, nằm ngay rìa Đại Mạc, trong một thung lũng có dòng sông Vạn Kiếp uốn quanh.
Trái với Đại Mạc chủ yếu là đồng cỏ, tuy có hồ nước nhưng khó trồng trọt, vùng đất Vương Đô đặc biệt là ngoại ô lại có đất nền tơi xốp, dễ trồng lương thực, cây ăn trái.
Đây như một điều kỳ diệu mà thiên nhiên ban tặng cho Đại Thương, vì chỉ nhích lên một chút thôi là sẽ đến khu vực lạnh giá của Khúc Băng, nơi ngọn núi thiêng Tuyết Nhạn trấn tọa từ bao đời.
Đoàn người từ trên cao nhìn xuống, có thể thấy toàn cảnh Vương Đô thu gọn vào trong tầm mắt, tuy nhiên cũng phải đi cả một ngày mới có thể tới trung tâm của Vương Đô, cũng chính là kinh thành Trích Nguyệt.
Về tới đây đã xem như đường đi không còn nguy hiểm gì, Khung Dực cũng thả lỏng, không cần phải dẫn đầu đoàn người nữa.
Hắn biếng nhác cho Tiểu Hổ đi chậm lại, lững thững thả bước, vừa đi vừa ngắm những nông trại ven đường.
Chẳng mấy chốc, Khung Dực đã tuột xuống giữa đoàn.
"Anh Kỷ Phong! Đây là lúa gì thế? Nhìn không giống lúa ở Kinh Lạc nước em?"
"Lúa mì đấy, lúa của Kinh Lạc là lúa gạo, thưa Hoàng tử."
"Anh Kỷ Phong, chúng ta sắp đến Vương Đô chưa?"
"Đây đã là địa phận Vương Đô rồi."
"Ý em là, chúng ta sắp tới thành Trích Nguyệt chưa?"
"Nếu kịp thì chiều tối nay sẽ đến Trích Nguyệt, thưa Hoàng tử."
Liếc mắt thấy Ngọc Huyên đã thôi không hỏi nửa, Kỷ Phong cười cười:
"Hoàng tử không thắc mắc vì sao kinh thành có tên là Trích Nguyệt ư?"
"Vì sao?" Ngọc Huyên tròn mắt.
"Nhị vương tử biết một câu chuyện hay lắm, giải thích về nguồn gốc của cái tên này đấy." Kỷ Phong làm như vô tình, buông lời hờ hững.
"..."
"Em vào xe ngồi một lát đây." Nói rồi Ngọc Huyên chui trở lại vào xe ngựa.
Kỷ Phong thở hắt ra, quay sang nhìn Khung Dực, miệng thì thào: "Còn-giận-kìa."
Khung Dực trừng mắt trước khi giục ngựa chạy đi: "Ai mượn?"
Đoàn người lại mải miết tiến về phía trước.
Khung Tuấn lúc này đang dẫn đầu đoàn người, ngẩng lên đã thấy tòa thành sừng sững, to lớn uy nghiêm càng lúc càng hiện ra trước mắt.
Hắn quay lại ra lệnh cho đám binh sĩ phía sau: "Giương cờ!"
Thấy Khung Dực đang phi ngựa đến, Khung Tuấn nhăn mặt nhắc nhở: "Về đến Trích Nguyệt rồi, đệ đội vương miện vào đi."
"Tuân lệnh Đại hoàng huynh." Khung Dực le lưỡi rồi nhảy lên xe ngựa của mình.
Hai lá cờ thêu chữ Khung và kí hiệu trăng tròn được phất lên, màu tím tượng trưng cho Đại vương tử Khung Tuấn, màu đỏ sẫm tượng trưng cho Nhị vương tử Khung Dực.
Hai sắc cờ giương cao ngạo nghễ trên nền trời đỏ rực, tung bay phơi phới.
Binh lính gác cổng thành nhìn xuống, giật mình rồi lập tức nghiêm giọng hô:
"Mở cửa thành! Mở cửa!"
Lát sau, cửa thành bằng sắt có khắc hoa văn mặt trăng nặng nề chầm chậm dịch chuyển, mở sang hai bên.
Lập tức, hai hàng lính từ trong chạy rầm rập về phía đoàn người, khi đến nơi, tất cả đều đồng loạt khuỵu một gối, chống giáo xuống nền đất gõ ba cái rồi hô vang:
"Cung nghênh nhị vị Vương tử hồi kinh!"
Khung Tuấn và Khung Dực đi đầu, tuy có vài phần phong trần mệt mỏi nhưng cũng không át nổi khí chất hoàng tộc cao quý.
Vương miện sắt vòng qua trán, vai khoác áo choàng nặng rũ, hông đeo trường kiếm, nhị vị Vương tử của Đại Thương nghiêm trang uy vũ nhập kinh.
Trên đường chính dẫn thẳng đến hoàng cung, dân chúng hai bên cũng đã dạt ra nhường đường.
Đoàn người đi tới đâu, dân chúng quỳ xuống tung hô tới đó.
Vài cô thiếu nữ bạo gan ngẩng mặt lên nhìn hai Vương tử, nhìn được rồi thì lại đỏ mặt cúi đầu, bẽn lẽn cười.
Bất giác, Khung Dực lại quay ra phía sau.
Từ khoảng cách này, hắn không thấy rõ mặt người ngồi trong xe ngựa, chỉ nhác thấy cánh tay thon thon đặt trên bệ cửa sổ, rèm xe kéo hẳn sang một bên, đong đưa theo nhịp lắc lư.
Nhị vương tử nhếch mép, ngạo mạn điều chi không rõ.
Tầm nửa canh giờ sau, đoàn người đã vào đến hoàng cung Trích Nguyệt.
Khung Tuấn, Khung Dực và Ngọc Huyên đều có một đêm nay nghỉ ngơi, chuẩn bị sáng mai được Hoàng đế triệu kiến.
Giống như hoàng tộc Kinh Lạc, hoàng tộc Đại Thương cũng cùng nhau chung sống trong cung, mỗi người sẽ có một cung điện riêng.
Do Hoàng đế Khung Vũ chưa hạ lệnh Ngọc Huyên ngụ tại nơi nào, đêm đầu tiên này Ngọc Huyên được xếp ở tạm trong một cung điện dành cho sứ thần nước khác khi sang Đại Thương.
Lúc Khung Dực vừa tắm xong, đang còn trùm trên đầu một chiếc khăn lau cho khô tóc, bên ngoài đã có tiếng lao xao của viên quan truyền lời.
Hoàng đế cho gọi hắn và đại ca, ngay lập tức vào diện kiến.
"Bái kiến phụ hoàng." Khung Tuấn và Khung Dực quỳ một gối, chắp tay, cúi đầu cùng hô.
"Đứng cả lên đi." Bên trên có giọng uy nghiêm truyền xuống.
Khung Vũ cũng trạc tuổi Chu An, ngoài năm mươi tuổi, tuy nhiên lại đậm người hơn, tóc cũng bạc nhiều hơn.
Ngài vận áo dài tay màu xám thêu hoa văn chỉ bạc, thắt lưng da nạm sắt và một viên bảo thạch màu cam đỏ, đầu đội vương miện sắt và vàng, thoạt nhìn qua có vẻ lạnh lùng, lại còn phảng phất chút tàn nhẫn của đế vương phương bắc.
"Chuyến đi thế nào?" Ngài đặt bản báo cáo đang đọc trên tay xuống, nhìn hai người con rồi hỏi.
Hai anh em hiểu ý, liếc nhau một cái, Khung Tuấn bước lên tâu trước:
"Bẩm phụ hoàng, chỉ phát sinh chút chuyện lúc gặp thú hoang ở Đại Mạc, còn lại đều ổn cả.
Vua chủ Kinh Lạc dường như còn có ý đình chiến lâu dài.
Hắn còn bảo tự tay ủ rượu mơ, gửi cho người mười vò."
Gặp thú hoang ở Đại Mạc là chuyện rất bình thường, dĩ nhiên khi "thú hoang" này là sói lửa từ Khúc Băng thì lại là chuyện khác.
Khi chưa điều tra rõ nguyên nhân, tốt nhất là chưa tấu lên lúc này.
Quả nhiên, Khung Vũ hoàn toàn không chú ý tới chi tiết thú hoang lẫn rượu mơ kia.
Ngài im lặng suy nghĩ vài giây rồi hỏi lại: "Hắn đã nói vậy sao?"
"Bẩm phụ hoàng, Chu An bảo không mong thù hận lan xuống lớp trẻ." Khung Tuấn cung kính thưa.
"Đứa trẻ kia thế nào?" Khung Vũ chợt hỏi.
Khung Tuấn hơi giật mình, tuy nhiên đã kịp kìm lại cảm xúc trên gương mặt.
Hắn bình tĩnh đáp: "Hoàng tử Kinh Lạc có vẻ nho nhã, thiện lương."
Phụ hoàng hắn vừa gọi Ngọc Huyên là "đứa trẻ".
Mặc dù nghe qua có vẻ tỏ ý xem thường, nhưng không hiểu sao Khung Tuấn có cảm giác trong cách gọi này còn xen lẫn một chút tùy ý, không phòng bị.
Lúc này, Khung Dực chợt cất tiếng: "Phụ hoàng, người định bố trí cho Ngọc Huyên thế nào?"
Khung Vũ đưa mắt nhìn con trai, hỏi lại: "Hai con nghĩ nên bố trí thế nào?"
Hiển nhiên Hoàng đế đã có chủ ý từ trước, câu hỏi này chẳng qua chỉ để xem Đại vương tử và Nhị vương tử có cách suy nghĩ ra sao thôi.
Khung Dực thẳng thắn đáp luôn: "Nếu là nhi thần, ngay từ đầu nhi thần đã chẳng phiền phức như thế.
Đình chiến thì đình chiến, củng cố quân lực, lương thảo, sản xuất vũ khí.
Sau này nếu như lại giao chiến, hai bên lên chiến trường chỉ nói gươm đao, kẻ mạnh thì lại thắng."
Khung Tuấn nghe lời nhị đệ thốt ra, lập tức cau mày.
Hoàng đế chỉ hỏi cách nghĩ của bọn họ, thế nhưng trong câu trả lời của Khung Dực đã nói lên suy nghĩ trong tiềm thức của hắn.
Hắn đang đặt mình ở vị trí đế vương.
Bốn chữ "nếu là nhi thần" đã mang hàm ý bất kính cực điểm, điều này e rằng ngay cả Khung Dực cũng chẳng nhận ra.
Quả nhiên, Khung Vũ đưa mắt nhìn Khung Dực đăm đăm một hồi, rồi lại dời mắt sang Khung Tuấn: "Con thì sao?"
Khung Tuấn đè xuống hồi hộp, cố định vẻ mặt rồi hơi cúi người xuống trả lời: "Bẩm phụ hoàng, hai nước đã thỏa thuận đối đãi Ngọc Huyên như khách quý, vậy nên nhất định phải giữ lời.
Đó là chữ tín của bậc quân vương."
Khung Vũ chưa đáp lời ngay.
Ngài đi lại phía cửa sổ, nhìn xuống toàn cảnh kinh thành Trích Nguyệt đang sáng đèn trong đêm tối, xa xa là những nông trại, những cánh đồng uốn lượn chập chùng của ngoại ô Vương Đô, giờ đang bị bóng đêm che khuất.
"Ban đầu ta cũng không có ý định ra yêu cầu giữ Ngọc Huyên, tuy nhiên sau khi biết tuổi của nó, ta đã đổi ý." Khung Vũ buông giọng xa xăm.
"Ngọc Huyên năm nay mười hai tuổi, chúng ta giữ nó đến khi mười tám, tức là sáu năm.
Sáu năm này là giai đoạn chủ chốt của thời kỳ trưởng thành, đóng vai trò gần như quyết định trong việc hình thành tính cách, quan điểm sống, chính kiến của một người.
Huống chi, nó còn là Hoàng tử duy nhất của Kinh Lạc, tương lai chắc chắn sẽ kế thừa đế vị từ Chu An."
Khung Dực còn đang ngỡ ngàng, Khung Tuấn đã gật đầu, chậm rãi tiếp lời: "Tương lai của Kinh Lạc sau này, hoàn