Không bao lâu sau khi hoa phượng hoàng tàn lụi, Tô phủ liền nghênh đón Viễn Đình hầu phủ tới cửa cầu hôn.
Viễn Đình Hầu và Thế tử mang theo bà mối cùng mấy chục rương lễ vật tặng cho nhà gái, còn có tam thư: sính thư cầu hôn, lễ thư ghi danh sách lễ vật, nghênh thân thư cưới nhà gái.
Đồng thời Khâm Thiên Giám cũng đã tính toán ra ngày lành tháng tốt để gả cưới, Văn Nhân Cẩn và Tô Lạc Yên có bát tự tương hợp.
Đặc biệt nghe nói nhà trai còn tự mình mang đến một đôi chim nhạn lớn.
Tuổi của A Lạc bây giờ xem như là quá lứa, cho nên hôn sự này được quyết định gấp gáp.
Hơn nữa còn có nguyên nhân mượn hôn sự này để đè bẹp chuyện tai tiếng trước đó, hôn kỳ liền chọn ngày lành gần nhất.
Tuy rằng bên ngoài mỗi người đều trách cứ Thái tử và Tô Bạch Vi, nhưng A Lạc bị kẹp ở giữa, thanh danh cũng đã bị hủy hoại rồi.
Gần đây có đôi khi nàng đi ra ngoài, thường nghe thấy những lời chế giễu sau lưng.
Trước kia nàng là Thái tử phi nội định, không biết bao nhiêu quý nữ sau lưng hâm mộ ghen ghét đố kỵ, lúc này thấy nàng rơi vào thê thảm, tất nhiên sẽ có người nhân cơ hội bỏ đá xuống giếng.
Có người cười nhạo nàng ngay cả thứ muội cũng không đấu lại được, lại có người nói sau này không ai dám cưới nàng nữa, còn có người bảo nàng mau chóng xuất gia đi, đừng ở lại kinh thành này làm gì cho mất mặt.
Ngược lại Triệu Thu Thần ngày xưa luôn đối đầu với nàng, đột nhiên đổi tính, thỉnh thoảng đến Tô phủ tìm A Lạc chơi.
A Lạc không thèm để ý lời đồn đãi bên ngoài, trong lòng nàng tràn đầy chờ mong gả cho Văn Nhân Cẩn, đếm ngày trông mong hôn kỳ sắp tới.
Hôn kỳ được định vào tháng sau, đây là kết quả hai nhà thương nghị ra, đã là ngày lành gần nhất rồi.
Trùng hợp chính là, hôn kỳ ban đầu của A Lạc và Thái Tử cũng không cách xa ngày đó.
Nếu không phải không muốn có vẻ quá vội vàng, A Lạc còn muốn dịch về phía trước.
Vốn nàng cho rằng mình đã đủ gấp, kết quả A Lạc phát hiện còn có người còn gấp hơn nàng!
Đó chính là cha của Văn Nhân Cẩn, Viễn Đình hầu Văn Nhân Tụng.
Viễn Đình Hầu lúc còn trẻ cũng là một đại nhân vật, hắn không xuất thân từ hoàng thất, sở dĩ được phong hầu hoàn toàn là dựa vào quân công của mình từng chút từng chút kiếm được.
Văn Nhân Tụng vốn chỉ là một thiếu niên bình thường sinh ra ở nông thôn, có một năm quê hương gặp hạn hán mấy chục năm khó gặp, lương thực không thu hoạch được hạt nào, người trong nhà Văn Nhân Tụng đều chết vì đói, nghe nói làm lính sẽ có cơm ăn, hắn liền chống đỡ một hơi chạy đi tòng quân.
Khi đó vương triều Đại Vinh thành lập chưa đến trăm năm, thế cục chưa ổn định, địch Nhung ở phía Bắc cùng người Nam Cương đều đang làm loạn, Văn Nhân Tụng vừa vào quân doanh, liền thuận lợi như rồng gặp nước.
Hắn có thiên phú quân sự cực cao, trên chiến trường nhiều lần lập kỳ công, không biết đánh thắng bao nhiêu trận, dần dần từ một tiểu tốt bò đến vị trí đại tướng quân, mỗi một bút công lao tất cả đều chân thật.
Về sau hắn ở quan ngoại công huân quá lớn, thanh danh quá thịnh, đến nỗi dân chúng chỉ biết Văn Nhân đại tướng quân, không biết danh hiệu hoàng đế đương triều.
Điều này cực kỳ mạo phạm đến uy nghiêm của hoàng gia, vì thế đợi đến khi địch Nhung bị hắn đánh phục, không quấy rầy Đại Vinh nữa, Nam Cương cũng không nháo ra được loạn lạc gì, tiên đế liền hạ lệnh triệu hắn hồi kinh, nói muốn lấy phong hầu làm phần thưởng cho hắn.
Văn Nhân Tụng người này lại không yêu thích quyền thế, trong cốt tủy hắn vẫn là một tiểu thị dân chỉ cần có cơm no ba bữa là dễ dàng thỏa mãn.
Sau khi hắn hồi kinh, tiên đế quả nhiên giữ lời hứa, phong cho hắn làm một Viễn Đình hầu không có thực quyền, thuận lợi thu hồi binh quyền của hắn.
Sợ trong lòng hắn có bất mãn, tiên đế còn trấn an Văn Nhân Tụng nói rằng sẽ ban hôn cho hắn, quý nữ toàn thành chỉ cần hắn coi trọng người nào thì sẽ thành hôn với người đó.
Khi ấy, Văn Nhân Tụng hơn ba mươi tuổi, là một lão độc thân thô lỗ, vừa nghe lời này liền nhất thời cao hứng.
Kỳ thật lúc trước hắn ở quan ngoại không thiếu nữ nhân, nhưng nữ nhân bên kia quá mạnh mẽ, hắn vẫn thích người nhu thuận hơn.
Quý nữ kinh thành này ngược lại là một đám ôn nhu hiền thục, chỉ là chướng mắt hắn quê mùa, thi thoảng ở trên đường gặp phải quý nữ nhà nào xuất hành, nhìn thêm hai lần, đối phương đã bày ra vẻ mặt ghét bỏ nhìn hắn.
Hiện tại có mệnh lệnh của Hoàng đế, cho dù những quý nữ kia có chán ghét hắn, cũng không dám nói gì?
Bởi vì đạo khẩu dụ này của tiên đế, Văn Nhân Tụng liền thật sự nổi danh khắp kinh thành.
Người khác nổi danh thì đều là mỹ danh còn Văn Nhân Tụng lại là tiếng xấu.
Chúng quý nữ các nhà sợ mình sẽ bị người dã man từ quan ngoại này chọn trúng, ai nấy đều tránh hắn như rắn rết, ngày thường đóng cửa không ra, ngay cả yến hội trong kinh thành cũng tổ chức ít đi.
Mãi đến khi Văn Nhân Tụng chọn được thê tử, trong kinh mới khôi phục náo nhiệt như xưa, lúc ấy cũng coi như là một chuyện cười để nói.
Bất quá đừng nhìn thanh danh bên ngoài Viễn Đình hầu kém, là một tên côn đồ nổi tiếng xa gần, đại lão thô kệch, không có việc gì liền thích đi khắp nơi tìm người cưỡi ngựa uống rượu đi dạo hoa lâu, nhưng hắn đối xử với thê tử của mình lại ngoài dự liệu của người khác.
Năm đó Văn Nhân Tụng coi trọng nữ nhi của một phú thương đến kinh làm ăn, liền trực tiếp nhất kiến chung tình với tiểu cô nương, ngay sau đó liền tới cửa cầu thân, phú thương kia là một thương nhân, dĩ nhiên rất vui lòng kết thân cùng Hầu gia, gật đầu tại chỗ.
Sau khi tiểu cô nương gả qua, Văn Nhân Tụng thay đổi tật xấu trước kia, rượu hoa cũng không uống, mỗi ngày đều bảo vệ, trông coi bên người tiểu thê tử của mình.
Hai người trải qua một đoạn thời gian tương đối hạnh phúc, nhìn thấy tình cảm của bọn họ tốt như vậy, Văn Nhân Tụng vừa không nạp thiếp, cũng không ăn vụng, đối đãi với thê tử sủng ái như châu như bảo, các quý nữ trước kia chướng mắt hắn liền thấy hối hận vì đã bỏ lỡ nam nhân tốt như vậy.
Nhưng vận mệnh luôn vô thường, cuộc sống tốt đẹp không qua mấy năm, tiểu thê tử mang thai khó sinh, sinh ra Văn Nhân Cẩn bẩm sinh đã ốm yếu, ngay cả hài tử của mình cũng không nhìn được một cái liền ra đi.
Từ đó về sau, Văn Nhân Tụng không cưới vợ nữa.
Hắn cứ như vậy một mình nuôi nấng Văn Nhân Cẩn lớn lên, vẫn uống rượu hoa nhìn mỹ nhân như thường lệ, chỉ là hôm nay trong kinh thành, rốt cuộc không ai cười nhạo hắn nữa.
Thứ nhất mọi người đã thấy rõ tính khí của hắn, biết bề ngoài hắn nhìn như phóng đãng thành tính nhưng bản chất lại không tồi.
Thứ hai chính là bởi vì Văn Nhân Cẩn, Văn Nhân Cẩn quá xuất sắc, cho dù quanh năm ở Thiên Môn Sơn, mù mắt bẩm sinh, hiếm lắm mới hồi kinh một lần cũng vẫn đủ để khiến người ta biết hắn ưu tú hơn xa người thường.
Huống hồ dù hắn không ở kinh thành, nhưng bên ngoài thường xuyên có thư họa, bảng chữ mẫu hoặc thơ ca của hắn truyền đến, mỗi lần đều có thể khiến nhân sĩ tranh nhau nghị luận.
Sinh ra một nhi tử xuất chúng như vậy, Văn Nhân Tụng rất lấy làm kiêu ngạo.
Nhưng mà một khi nói đến chuyện thành gia lập thất, nhi tử khiến hắn kiêu ngạo bao nhiêu thì lại làm hắn đau đầu bấy nhiêu.
Văn Nhân Tụng nào không biết, tin tức về mệnh lệnh của vị sư phụ mà bên ngoài đang đồn đãi kia căn bản không phải là sự thật, Thanh Nhất đạo trưởng vốn đâu có nói như vậy, là do Văn